Phạm Thành Trang, Nguyễn Thị Thu, Bùi Đình Đức
Khoa Quản lý TNR&MT – Đại học Lâm nghiệp
TÓM TẮT
Đặc điểm đất tại Bản Khoang và Tả Van có tính chất đất gần giống nhau. Độ ẩm đất là như nhau. Hàm lượng mùn trong đất của xã Tả Van là 8,26% cao hơn ở xã Bản Khoang (là 3,5%). Hàm lượng đạm dễ tiêu trong đất của Tả Van là 2,58 cao hơn ở xã Bản Khoang (là 1,04). Ngoài ra, các số liệu khảo sát cho thấy đất ở khu vực xã Tả Van có Trúc đen phân bố tốt hơn đất ở khu vực xã Bản Khoang. Từ đó thấy rằng, yếu tố đất đai cũng góp phần ảnh hưởng đến tình hình sinh trưởng của Trúc đen tại khu vực nghiên cứu.
Từ khóa: Đất đai, Trúc đen
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, tre trúc là loài cây có giá trị to lớn về nhiều mặt, cả về kinh tế, xã hội và văn hoá. Tre trúc là nhóm lâm sản ngoài gỗ có thể xếp thứ hai sau gỗ. Trong nhiều năm qua đã có nhiều nghiên cứu để phát triển nguồn nguyên liệu tre trúc. Tuy nhiên những nghiên cứu đó chỉ tập trung vào những loài có giá trị kinh tế cao, một số loài vẫn chưa được nghiên cứu, tìm hiểu sâu. Đặc biệt là những loài có phạm vi phân bố hẹp, diện tích còn rất ít nhưng lại có giá trị cao về khoa học, bảo nguồn gen,… Trúc đen (Phyllostachys nigra Munro) là một trong số đó.
Trong Sách đỏ Việt Nam năm 1996 và năm 2007 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, loài Trúc đen (Phyllostachys nigraMunro, 1868) mớiđượcpháthiệnvàđemtrồng làm cảnhởViệtNamtrongmột sốnăm gầnđây. Trúc đen có dáng, màusắcđẹp, lạnên đã và đang trởthànhmột cây cảnhtriểnvọng. Trúcđenlàloàihiếm,sốlượngcâyít,vùng phân bốhẹp (chỉ tập trung ở độ cao khoảng 1.200m trở lên ở Lào Cai (Sa Pa) và Hà Giang (Đồng Văn: Quản Dzí Ngài; Mèo Vạc), miền Nam Việt Nam,cóýnghĩakhoahọc, cầnđược bảotồnnguồngen. Tình trạng bảo tồn thuộc phân hạng VU a1a (sẽ nguy cấp).
Trúc đen phân bố ở hai xã Bản Khoang và Tả Van, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai (là vùng đệm của VQG Hoàng Liên) và Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn (Hà Giang), người dân địa phương đã và đang khai thác với mục đích làm cảnh, làm thuốc và thức ăn nên diện tích Trúc đen suy giảm mạnh cả về số lượng và chất lượng (khoảng 700m2). Đặc biệt, người dân chưa quan tâm đến việc gây trồng, mở rộng diện tích phục vụ mục đích kinh tế và bảo tồn loài. Nghiên cứu về đặc điểm đất đai khu vực có Trúc đen phân bố là rất cấp thiết; đóng góp những thông tin hữu ích trong việc gây trồng và định hướng nơi trồng thích hợp phục vụ công tác bảo tồn ngoại vi loài thực vật đặc hữu quý hiếm này.
Tin mới nhất
- Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp
- Ảnh hưởng của mật độ và phân bón đến năng suất rừng trồng Keo lai 9,5 năm tuổi ở Quảng Trị
- Phân tích chỉ số đa dạng sinh học của thực vật thân gỗ trong Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà - Tp. Đà Nẵng
- Nghiên cứu đa dạng di truyền cây Dầu rái (Dipterocarpus alatus Roxb.) bằng kỹ thuật RAPD
- Kết quả nghiên cứu bước đầu về thành phần hóa học của dầu hạt Lai (Aleurites molucana)
Các tin khác
- Nghiên cứu tác động của các hoạt động sinh kế của cộng đồng dân cư vùng đệm đến tài nguyên rừng vườn quốc gia Kon Ka King, tỉnh Gia Lai
- Đánh giá thực trạng quản lý rừng và đất lâm nghiệp do ủy ban nhân dân xã quản lý tại huỵện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
- Nghiên cứu vi sinh vật nội sinh và các hợp chất hóa học có hoạt tính kháng nấm gây bệnh ở các dòng Keo tai tượng khảo nghiệm tại Thừa Thiên Huế
- Xây dựng cơ sở khoa học đề xuất hệ thống biện pháp kỹ thuật lâm sinh cho rừng tự nhiên tại vùng đệm vườn quốc gia Chư Mom Ray tỉnh Kon Tum
- Nghiên cứu đặc điểm lâm học rừng kín ẩm thường xanh ẩm nhiệt đới tại Ban quản lý rừng phòng hộ Tân Phú - Đồng Nai