ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong chương trình trồng mới 5 triệu héc ta rừng, có 3 triệu héc ta rừng sản xuất bao gồm 1 triệu héc ta cây công nghiệp dài ngày và 2 triệu héc ta cây lâm nghiệp. Trong đó có tới 75% là các loài cây keo, bạch đàn, thông và tràm, còn một số loài nhập nội có triển vọng, một số loài cây gỗ lớn và cây bản địa chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ và cũng chưa được chú ý phát triển.
Xoan ta (Melia azedarach) thuộc họ Xoan (Meliaceae) là loài cây gỗ nhỡ hay gỗ lớn, có chiều cao 15-20m. Là loài cây đa tác dụng: gỗ có thể dùng làm đồ mộc gỗ xây dựng, lá làm phân xanh, hạt có thể ép lấy dầu, vỏ có thể làm thuốc…Là loài cây bản địa phân bố rộng rãi ở nước ta suốt từ Bắc đến Nam. Đây là loài có gỗ nhẹ và mềm, dùng để xây dựng, đóng đồ mộc… cũng là loài cây được trồng phân tán rất phổ biến, có tăng trưởng khá nhanh và có giá trị kinh tế nhưng cho đến nay chúng ta hầu như chưa có nghiên cứu chọn và nhân giống cho đối tượng này.
Tếch (Tectona grandis) thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), phân bố trong các khu rừng nhiệt đới ở Miến Điện, nam và trung Ấn Độ, Thái Lan, Lào và đã được gây trồng trên một số nước như Indonesia, Malaysia, Philippin, Cămphuchia và một số nước Châu Phi, Châu Mỹ…
Do có giá trị kinh tế rất cao nên Tếch trồng với diện tích lớn. Ở Java (Indonesia) diện tích trồng Tếch khoảng 1 triệu hecta chiếm tới 45% diện tích rừng trồng. Tính đến 2003 diện tích rừng Tếch ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương lên tới 25 triệu hecta (C.T.S. Nair., 2003).
Trước nhu cầu về gỗ lớn, bao gồm gỗ xây dựng, gỗ nguyên liệu sản xuất đồ mộc, hàng xuất khẩu ngày càng tăng nhanh. Từ trước đến nay nguồn cung cấp các loại nguyên liệu này chủ yếu là từ rừng tự nhiên hoặc nhập khẩu, mặt khác các nghiên cứu chọn giống cây rừng gần đây chủ yếu tập trung vào một số đối tượng cây nhập nội, mọc nhanh phục vụ cho công nghiệp và ván nhân tạo… các nghiên cứu về cây gỗ lớn và cây bản địa còn thiếu, mặt khác nhân giống bằng công nghệ mô-hom ngoài việc đảm bảo chất lượng di truyền, còn cung cấp được số lượng lớn cây giống có chất lượng cho trồng rừng. Do đó nghiên cứu chọn giống, nhân giống cho các đối tượng Tếch và Xoan ta là việc làm cần thiết.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Chọn, nhân và phát triển giống Xoan ta và Tếch có năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng rừng gỗ lớn
III. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
III.1. Vật liệu và địa điểm nghiên cứu
– Đối với Xoan ta: các địa điểm được chọn lọc để chọn cây trội dự tuyển phải có độ tuổi từ 5 năm trở nên và có diện tích trồng tối thiểu từ 0,2ha hoặc có số lượng cây từ 30 cây trở nên (Tại một số tỉnh : Hòa Bình, Điện Biên, Sơn La, Vĩnh Phúc Phú Thọ, Yên Bái, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Đồng Nai, Bình Phước)
– Đối với Tếch: Địa điểm chọn cây trội dự tuyển cho Tếch: Các lâm phần rừng trồng có độ tuổi từ 20 năm trở nên, có diện tích tối thiểu 0,3ha ( Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Châu (Sơn La), Đồng Nai, Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Nguyên, Đắc Lắc)
III.2. Phương pháp nghiên cứu
– Chọn lọc cây trội: Đo đếm số liệu về sinh trưởng, và các chỉ tiêu về chất lượng và đánh giá độ vượt trội về chỉ tiêu đo đếm của các cây trội chọn lọc so với các cây xung quanh theo Lê Đình Khả (2003)
– Các thí nghiệm về nhân giống: Nghiên cứu nhân giống sinh dưỡng bằng phương pháp giâm hom thực hiện tương tự như với một số loài cây rừng (Lê Đình Khả, 2003), Nhân giống bằng nuôi cấy mô theo phương pháp nhân giống đã được thực hiện cho keo lai, bạch đàn (Đoàn Thị Mai, 2003).
– Xứ lý số liệu: Số liệu thí nghiệm thu được được tiến hành xử lý trên máy tính bằng phần mềm EXCEL.
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ XOAN TA
IV.1. Chọn địa điểm chọn lọc cây trội
Qua khảo sát một số tỉnh/thành trên một số vùng sinh thái chính, 79 cây trội Xoan ta đã được chọn lọc, số liệu về độ vượt của các chỉ tiêu chiều cao(H), chiều cao dưới cành (Hdc) và đường kính ngang ngực (D1.3) được tổng hợp trong bảng sau:
Bảng 1. Tổng hợp các khu vực điều tra và số lượng cây trội tại các điểm nghiên cứu
Stt |
Tỉnh/Thành |
Số cây trội được chọn |
Độ vượt (ϭ) |
||
Hvn |
Hdc |
D1.3 |
|||
1 |
Hà Nội |
4 |
1,59 – 1,88 |
1,7 – 1,97 |
1,74 – 1,85 |
2 |
Ba Vì (Hà Tây) |
30 |
1,46 – 2,75 |
1,5 – 4,22 |
1,55 – 4,08 |
3 |
Hòa Bình |
10 |
1,54 – 2,24 |
1,47 – 2,57 |
1,52 – 2,68 |
4 |
Nghệ An |
5 |
1,53 – 2,19 |
1,59 – 2,21 |
1,82 – 2,13 |
5 |
Thanh Hóa |
8 |
1,57 – 1,94 |
1,52 – 1,94 |
1,55 – 2,48 |
6 |
Quảng Trị |
4 |
1,63 – 2,62 |
1,61 – 2,06 |
1,78 – 2,24 |
7 |
Phú Thọ |
8 |
1,53 – 1,98 |
1,54 – 2,21 |
1,56 – 2,27 |
8 |
Đồng Nai |
10 |
1,50 – 1,97 |
1,52 – 1,98 |
1,55 – 2,48 |
Tổng cộng |
79 |
|
|
|
Từ các địa điểm chọn lọc cây trội tại Hà Nội, qua kết quả đo đếm đã chọn lọc được 4 cây trội dự tuyển. Các cây trội dự tuyển được chọn chỉ có độ vượt từ 1,59 đến 1,88 lần độ lệch chuẩn. Về chỉ tiêu chiều cao dưới cành các cây trội có độ vượt từ 1,79 đến 1,97 lần độ lệch chuẩn.
Số liệu sinh trưởng đo được tại Ba Vì cũng cho thấy, khu vực này tương đối thích hợp để trồng Xoan, sau 6 năm chiều cao vút ngọn trung bình của các cây Xoan ta tại khu vực khảo sát đạt khoảng 12,6m với đường kính ngang ngực trung bình cũng đạt tới 18,5 cm.
Các cây trội dự tuyển tại Hòa Bình được chọn lọc có độ vượt về chiều cao đạt từ 1,54 đến 2,24 lần độ lệch chuẩn.
Ở Nghệ An, qua kết quả đo đếm đã chọn lọc được 4 cây trội dự tuyển. Các cây trội dự tuyển được chọn chỉ có độ vượt từ 1,59 đến 1,88 lần độ lệch chuẩn. Về chỉ tiêu chiều cao dưới cành các cây trội có độ vượt từ 1,79 đến 1,97 lần độ lệch chuẩn.
Tại các đại điểm chọn lọc cây trội tại Thanh Hóa, qua kết quả đo đếm đã chọn lọc được 8 cây trội dự tuyển. Các cây trội dự tuyển được chọn chỉ có độ vượt từ 1,57 đến 1,94 lần độ lệch chuẩn.
Trong toàn bộ điểm được chọn tại Quảng Trị, qua kết quả đo đếm đã chọn lọc được 4 cây trội dự tuyển. Các cây trội dự tuyển được chọn chỉ có độ vượt từ 1,57 đến 1,63 lần độ lệch chuẩn. Về chỉ tiêu chiều cao dưới cành các cây trội có độ vượt từ 1,52 đến 1,88 lần độ lệch chuẩn.
Trong các điểm chọn lọc cây trội tại Phú Thọ đã chọn lọc được 8cây trội dự tuyển. Các cây trội dự tuyển được chọn chỉ có độ vượt từ 1,53 đến 1,98 lần độ lệch chuẩn. Về chỉ tiêu chiều cao dưới cành các cây trội có độ vượt từ 1,54 đến 2,21 lần độ lệch chuẩn
Từ các kết quả chọn giống cho Xoan ở Đồng Nai đề tài đã chọn lọc được 10 cây trội dự tuyển. Các cây trội dự tuyển được chọn chỉ có độ vượt từ 1,50 đến 1,97 lần độ lệch chuẩn. Về chỉ tiêu chiều cao dưới cành các cây trội có độ vượt từ 1,52 đến 1,98 lần độ lệch chuẩn.
IV.2. KẾT QUẢ DẪN DÒNG VÀ NHÂN GIỐNG VÔ TÍNH CHO CÁC CÂY TRỘI DỰ TUYỂN XOAN TA ĐÃ ĐƯỢC CHỌN LỌC
IV.2.1. Dẫn dòng cho các cây trội dự tuyển đã chọn lọc
Kết quả dẫn dòng cho các dòng cây trội Xoan ta cho thấy, nhân giống Xoan bằng rễ là phương pháp tương đối hiệu quả.
Từ thực tế kết quả dẫn dòng cho các dòng cây trội dự tuyển Xoan đã được chọn lọc cho thấy, khả năng dẫn dòng của Xoan sẽ giảm đi khi tuổi của cây trội tăng lên.
IV.2.2. Nhân giống sinh dưỡng Xoan ta bằng giâm hom
Kết quả thí nghiệm bước đầu cho thấy, với Xoan ta loại hóa chất thích hợp cho ra rễ trong giâm hom là IBA nồng độ 0,75% với tỷ lệ ra rễ đạt trên 60%. Như vậy, tỷ lệ sống và ra rễ của Xoan nếu so với các loại cây rừng khác như Keo lai, Bạch đàn cho dù thấp hơn nhưng có thể chấp nhận được trong nghiên cứu.
IV.2.3. Nhân giống Xoan ta bằng nuôi cấy mô.
Tương tự như với các loài cây rừng khác, thuỷ ngân clorua 0,1% có tác dụng tốt hơn các loại hóa chất khử trùng khác khi khử trùng mẫu vật cho Xoan ta. Khi sử dụng hóa chất này cho thí nghiệm khử trùng, với thời gian khử trùng 15 phút tỷ lệ bật chồi đạt 13,33% đến 17,78% và tỷ lệ nhiễm từ 37,78% – 46,67%.
Kết quả thí nghiệm khử trùng theo mùa vụ cho thấy: mẫu vật lấy vào thời gian tháng 4 đến tháng 9 cho tỷ lệ nảy chồi cao và thích hợp cho việc vào mẫu Xoan.
Môi trường nuôi cấy MS* có tác dụng rõ rệt làm tăng hệ số nhân chồi, chiều dài chồi cũng như số lá trên chồi của Xoan.
Kết quả thí nghiệm với các dòng cây trội Xoan cho thấy môi trường nhân chồi thích hợp cho các dòng Xoan ta nghiên cứu là môi trường MS* có bổ sung 0,5 – 1,0 mg/l BAP và 0,1 mg/l NAA. Khi sử dụng môi trường này để kích thích tạo chồi, hệ số nhân chồi đạt từ 5,9 đến 6,4 chồi/cụm chồi. Các chồi tạo được có chiều cao trung bình từ 2,7 đến 3,5 cm sau 20-25 ngày nuôi cấy.
Nghiên cứu ra rễ của Xoan đã được thực hiện ở giai đoạn khi các chồi có chiều cao 2,5 – 3 cm được tách ra cấy vào môi trường MS* có bổ sung một số chất Auxin để tạo rễ.
Kết quả thí nghiệm cho thấy với công thức môi trường MS* + IBA 0,5 ml/l cho tỷ lệ ra rễ các dòng Xoan nghiên cứu là cao nhất, đạt trung bình 87,26%, với số rễ trung bình 4,56 rễ/chồi thí nghiệm.
IV.3.4. Nhân giống Xoan ta bằng phương pháp ghép
Phương pháp này cho tỷ lệ sống tương đối cao đạt trung bình 83% (thấp nhất 6,67%, cao nhất 100%). Các cây tạo được có sinh trưởng tương đối tốt.
Kết quả thí nghiệm cho thấy:
– Tỷ lệ sống của cây ghép có chồi lấy từ cây hom cao nhất đạt 95,0% hơn hẳn so với cây ghép chồi lấy từ mô.
– Tuổi gốc ghép thích hợp là 30 – 40 ngày tuổi, tỷ lệ sống đạt trên 80%
– Chiều dài gốc ghép 10cm ở 30 ngày tuổi có tỷ lệ sống cây ghép cao nhất đạt 95,5%
– Tuổi chồi ghép tốt nhất là 3 tuần tuổi đạt trên 77,3%
– Chiều dài chồi ghép ở 10cm cho tỷ lệ sống cao nhất 96,6%
V. CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ TẾCH
V.1. Chọn lọc cây trội
Qua điều tra khảo sát đã chọn được 60 cây trội tại 5 khu vực khác nhau là Thanh Sơn, Định Quán, Xuyên Mộc, Mã Đà, Bình Phước.
Bảng 2. Tổng hợp kết quả chọn lọc cây trội Tếch
Stt |
Tỉnh/Thành |
Số cây trội được chọn |
Độ vượt (ϭ) |
||
H |
Hdc |
D1.3 |
|||
1 |
Thanh Sơn |
14 |
1,46 – 2,76 |
1,44 – 2,52 |
1,95 – 5,35 |
2 |
Định Quán |
14 |
0,63 – 4,39 |
0,30 – 1,53 |
1,50 – 1,95 |
3 |
Xuyên Mộc |
10 |
1,61 – 2,86 |
1,33 – 2,14 |
1,02 – 3,61 |
4 |
Mã Đà |
13 |
1,54 – 2,44 |
1,58 – 2,86 |
1,66 – 2,68 |
5 |
Bình Phước |
9 |
0,59 – 1,96 |
1,15 – 2,54 |
0,69 – 1,98 |
Tổng cộng |
60 |
|
|
|
Tại Định Quán, qua quá trình chọn lọc và so sánh dựa vào các chỉ tiêu chọn giống, 14 cây trội dự tuyển đã được chọn lọc, các cây này có độ vượt về đường kính theo độ lệch chuẩn là 1,5 – 1,95Sx.
Tại Xuyên Mộc, đã chọn được 10 cây trội dự tuyển, các cây này có chỉ tiêu chất lượng đều đạt yêu cầu chọn giống cho kinh doanh gỗ lớn với số điểm từ 51 – 58, và cao hơn nhiều so với các cây so sánh cùng lâm phần
Cũng tại Đồng Nai, 13 cây trội dự tuyển đã được chọn lọc tại Mã Đà, các cây này có hệ số biến động về đường kính ngang ngực tính theo độ lệch chuẩn (Sx) nằm trong khoảng từ 1,66 đến 2,68 Sx. Chỉ tiêu chất lượng của 9 cây trội dự tuyển, cao hơn các cây so sánh với độ vượt dao động từ 15,96 – 26,3%, Như vậy, qua kết quả phân tích ở trên có thể nhận thấy cả 9 cây trội dự tuyển này đều đạt yêu cầu đặt ra cho chọn lọc cây trội.
Qua khảo sát điều tra, đã chọn được 14 cây trội dự tuyển tại rừng tếch Thanh Sơn, mặc dù độ biến động của lầm phần là khá cao, xong các cây trội dự tuyển ở đây có độ vượt về đường kính ngang ngực đều tương đối cao.
V.2. DẪN DÒNG CHO CÁC CÂY TRỘI ĐÃ CHỌN
Kết quả dẫn dòng cho thấy, phương pháp ghép cho tỷ lệ sống tương đối cao đạt trung bình 56% (thấp nhất 20%, cao nhất 91%). Các cây tạo được có sinh trưởng tốt.
V.3. NHÂN GIỐNG SINH DƯỠNG TẾCH BẰNG NUÔI CẤY MÔ
Kết quả cho thấy, đối với Tếch thì công thức khử trùng tốt nhất là HgCl2 0,05% trong khoảng thời gian 10 phút, mặc dù tỷ lệ nhiễm là tương đối cao 74,8% nhưng tỷ lệ mẫu bật chồi lại cao (18,51%) so với các công thức thí nghiệm còn lại.
Kết quả thí nghiệm khử trùng theo mùa vụ cũng cho thấy: thời điểm lấy mẫu thích hợp của Tếch là vào mùa hè từ tháng 5 đến tháng 7.
Hệ số nhân của Tếch trong môi trường WPM đạt cao nhất là 2,27 lần, sau đó là ở môi trường MS hệ số nhân là 1,93 và cuối cùng là môi trường B5 với hệ số nhân chồi là 1,53.
Kết quả thử nghiệm môi trường nhân chồi Tếch cho thấy: trong các công thức thí nghiệm thì công thức môi trường có bổ sung BAP 0,5mg/l và NAA 0,1mg/l cho hệ số nhân đạt 1,99 lần, chiều cao chồi là 2,38cm và số lá bình quân trên chồi là 7,57 lá các chồi sinh trưởng tốt hơn hẳn so với các công thức thí nghiệm còn lại.
Qua các thí nghiệm nhân giống đã chọn được công thức thí nghiệm tốt nhất vừa cho tỷ lệ ra rễ cao, số rễ trung bình trên chồi nhiều, chiều dài trung bình của rễ cũng cao đó chính là công thức MS* + 1,5 mg/l IBA. Với công thức này tỷ lệ ra rễ là 91,73%, số rễ trung bình trên chồi là 2,22 rễ/cây, chiều dài trung bình của rễ là 1,58cm/rễ và chiều dài chồi là 2,5cm.
Để rút ngắn thời gian trong quy trình nhân giống cho Tếch, thí nghiệm giâm hom cho các chồi từ nuôi cấy Invitro trong điều kiện vườn ươm đã được tiến hành. Trong thí nghiệm này, các chồi thu được sau quá trình nhân chồi, được tách ra, chấm gốc bằng thuốc kích thích ra rễ thương phẩm dạng bột (TTG) rồi được chăm sóc như với phương pháp giâm hom thông thường. Kết quả thí nghiệm cho thấy, thuốc kích thích ra rễ dạng bột, có gốc là IBA với nồng độ 1% là thích hợp nhất cho quá trình ra rễ trực tiếp cho các dòng Tếch nghiên cứu, với tỷ lệ ra rễ đạt trên 85%. Áp dụng thành công phương pháp này, thời gian nhân giống cho Tếch rú ngắn được 10-15 ngày so với phương pháp thông thường, từ đó tiết kiệm được các chi phí đầu vào: hóa chất, nhân công,.. và hạ giá thành sản phẩm
Kết quả thí nghiệm về mụa vụ cho ra rễ chồi Invitro trực tiếp trong điều kiện vườn ươm cho thấy: về mùa Xuân và mùa thu thì tỷ lệ chồi sống cao và tỷ lệ ra rễ cũng cao. Còn mùa hè thì tỷ lệ sống thấp, nhìn vào biểu đồ có thể thấy về mùa hè thì tỷ lệ chồi sống và tỷ lệ chồi ra rễ tương đương hay những chồi sống được đều ra rễ. Còn về mùa Đông thì tỷ lệ sống cũng như tỷ lệ ra rễ là thấp nhất, các chỉ tiêu về số rễ trung bình và chiều dài rễ trung bình cũng thấp nhất.
Kết luận
Các kết quả nghiên cứu về Xoan ta
– Đã chọn lọc được 79 cây trội tại một số vùng sinh thái chính trong cả nước các cây trội đều đạt độ vượt về sinh trưởng cũng như chất lượng thân cây.
– Dẫn giống thành công bằng phương pháp giâm hom rễ, đây cũng là lần đầu tiên phương pháp này được nghiên cứu một cách có hệ thống và áp dụng vào thực tiễn. Kết quả đã dẫn giống được cho 60/79 cây trội đã chọn lọc.
– Đề tài đã nghiên cứu thành công phương pháp ghép nêm cho Xoan ta với tỷ lệ sống trung bình trên 80%. Đây cũng là phương pháp nhân giống sinh dưỡng hiệu quả nhất cho các dòng cây trội Xoan ta.
-Xoan ta còn có thể được nhân giống bằng phương pháp giâm hom bằng thuốc giâm hom dạng bột với nồng độ IBA là 0,75%.
-Kết quả thí nghiệm nuôi cấy mô cho thấy, phương pháp khử trùng thích hợp cho Xoan ta là dung dịch HgCl2 0,1% trong vòng 10-15 phút. Môi trường nhân chồi thích hợp cho Xoan ta là MS* (môi trường MS cải tiến) có bổ sung BAP nồng độ 0,75g/l. Thời gian cho 01 vòng cấy chuyển là 20 ngày với số chồi/cụm đạt 6,47. Môi trường ra rễ thích hợp cho Xoan ta là 1/2MS* bổ sung IBA nồng độ 0,75 với 76,04% số chồi ra rễ.
– Khảo nghiệm hậu thế và dòng vô tính cho thấy, Xoan ta có thể thích ứng với nhiều dạng lập địa khác nhau (Ba Vì, Đông Hà và Đồng Nai) với tỷ lệ sống trên 85% đến năm thứ 3 của khảo nghiệm. Một số cây có thể đạt được 7m chiều cao và 10cm về đường kính ngang ngực. Qua khảo nghiệm, đề tài cũng đã chọn lọc được 5-7 dòng vô tính có sinh trưởng tốt hơn so với giống cây hạt đại trà trong đó có các dòng BV9, BV4, TN8 và ĐP5 có sinh trưởng tốt trên cả 2 khảo nghiệm ở Ba Vì (Hà Nội) và Đông Hà (Quảng Trị). Tuy nhiên, do chưa đến giai đoạn thành thục về mặt sinh trưởng, các khảo nghiệm này cần được theo dõi thêm.
Kết quả nghiên cứu về Tếch
– Đề tài đã tiến hành chọn lọc được 50 cây trội từ các quần thể Tếch trong nước và tiến hành dẫn dòng thành công cho 36 dòng cây trội.
– Đã nhập 45 lô hạt có chất lượng từ các vườn giống của Thái Lan để xây dựng khảo nghiệm hậu thế và vườn tập hợp tập đoàn giống.
– Đề tài đã tiến hành nhân giống thành công bằng phương pháp hom cho 36 dòng cây trội và nuôi cấy mô cho 24 dòng cây trội.
-Kết quả giâm hom cho thấy, hom Tếch ra rễ tốt nhất với IBA nồng độ 1,0% và giá thể giâm hom phù hợp nhất hỗn hợp 70 đất mầu + 30 hỗn hợp ruột bầu.
-Với phương pháp nuôi cấy mô, khử trùng bằng HgCl2 0,05% trong thời gian 10 phút là tốt nhất. Môi trường nhân tạo chồi thích hợp là MS* + BAP nồng độ 0,5 mg/l + NAA nồng độ 1,0 mg/l. Môi trường ra rễ thích hợp là 1/2MS* + IBA nồng độ 1,5 mg/l.
-Từ nghiên cứu về nuôi cấy mô cho Tếch đề tài đã hoàn thiện được phương pháp ra rễ chồi non Invitro bằng chấm thuốc bột TTG có gốc là IBA nồng độ 1,0% với tỷ lệ ra rễ đạt trên 90%, tổng thời gian cho quá trình ra rễ và huấn luyện được rút ngắn 15%. Cây con tạo ra có độ đồng đều cao, khỏe mạnh.
– Qua khảo nghiệm hậu thế, đề tài bước đầu đã đánh giá và chọn được 5-7 gia đình có sinh trưởng vượt trội, các gia đình EA3, ĐQ29 và ĐQ31 là các gia đình có sinh trưởng tốt trên cả 2 khảo nghiệm tại Nghĩa Trung và Ba Vì. Nguồn giống thu được từ các lâm phần trong nước có sinh trưởng tương đương với các lô hạt có chất lượng di truyền được cải thiện từ Thái Lan. Tuy nhiên, do các khảo nghiệm mới được 3 tuổi nên cần có thêm thời gian theo dõi và chọn lọc tiếp.
Đề nghị
– Kết quả khảo nghiệm dòng vô tính Xoan ta cho thấy, hướng đi trồng rừng sản xuất Xoan ta bằng dòng vô tính là khả thi. Tuy nhiên, để có thể đưa ra những kết quả chắc chắn thì các nghiên cứu này cần tiếp tục triển khai trong thời gian tới.
-Từ kết quả khảo nghiệm giống Tếch cho thấy, Tếch có thể được trồng rừng bằng cây con vô tính, tuy nhiên để phát triển giống Tếch trong sản xuất cần có các nghiên cứu cụ thể và lâu dài hơn cả về mặt giống và các kỹ thuật lâm sinh.
Tin mới nhất
- Hội nghị “Thúc đẩy thí điểm cấp, quản lý mã số vùng trồng rừng nguyên liệu và khởi động dự án FCBMO”
- Hội đồng tổng kết nhiệm vụ Khoa học Công nghệ cấp tỉnh: Nghiên cứu trồng rừng thâm canh cây Sồi phảng (Lithocapus fissus Champ. Ex Benth) cung cấp gỗ lớn ở Quảng Ninh
- Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình phối hợp công tác giữa Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Tuyên Quang với Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, giai đoạn 2021 - 2025
- PGS.TS Hoàng Văn Thắng - Viện trưởng Viện nghiên cứu Lâm Sinh - Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam được tôn vinh :” Nhà khoa học của nhà nông 2024”
- Điều động, bổ nhiệm Phó Trưởng ban Khoa học, Đào tạo và Hợp tác quốc tế
Các tin khác
- Văn bản "Hướng dẫn dẫn xây dựng Kế hoạch phát triển ngành và lập Kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016-2020"
- Văn bản hướng dẫn xây dựng hồ sơ đề nghị công nhận tiến bộ kỹ thuật mới ngành Nông nghiệp
- Kỹ thuật trồng Tông dù
- Báo cáo tóm tắt đề tài: Nghiên cứu tính chất cơ, vật lý và giải phẫu của một số loài gỗ và tre thông dụng ở Việt Nam làm cơ sở cho chế biến, bảo quản và sử dụng.
- Hội nghị học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 9, Khóa XI tại Đảng bộ Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam