CHÒ CHỈ
Tên khác: Mạy kho, Rào
Tên khoa học: Parashorea chinensis Wang Hsie
Họ thực vật: Dầu (Dipterocarpaceae)
(Nguồn chính: Đoàn Đình Tam, 2009)
1. Đặc điểm hình thái
Cây gỗ lớn, thân tròn thẳng, cao 30-40m, đường kính có thể đạt 150-200cm, có bạnh vè, vỏ nứt dọc, màu nâu bạc, nhựa màu nâu. Cây thường chiếm tầng trên của rừng, phân cành cao. Cành non có phủ lông.
Lá đơn, hình trái xoan. Cây non lá to, dài 13-15cm, rộng 6-7 cm, có lá kèm màu lục nhạt. Cây lớn, lá nhỏ hơn, có 15-18 đôi gân thứ cấp gần song song. Mặt dưới lá và mặt trên của gân lá có phủ lông hình sao, gốc mỗi lá có 2 lá kèm.
Hoa mọc đầu cành, cánh hoa màu vàng, có mùi thơm nhẹ. Quả màu xanh xám, có đường kính 4-6mm, dài 13-16mm, có 5 cánh không đều, khi non màu hồng nhạt, khi khô màu nâu sẫm.
2. Đặc tính sinh thái
Chò chỉ phân bố tự nhiên ở các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, Ninh Bình, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Hà Giang. Thường gặp chúng trong rừng tự nhiên, có độ cao từ 100m đến 700m so với mực nước biển, nơi có lượng mưa bình quân từ 1600-2300mm, nhiệt độ bình quân 20-240C. Chò chỉ gặp trên nhiều loại đất như feralit đỏ vàng, nâu vàng trên đá vôi, tầng trung bình đến dày, hơi ẩm.
Trong rừng nguyên sinh, Chò chỉ hỗn giao với các loài gỗ lớn như Trường, Sấu, Re xanh, Trám, Sâng. Ở rừng thứ sinh, Chò chỉ hỗn giao với các loài như Dẻ, Kháo vàng, Vàng anh, Máu chó, Côm. Trong tự nhiên Chò chỉ không tồn tại ở những nơi đất trống đồi trọc, hoặc đất bạc màu thoái hoá.
Ở rừng nguyên sinh cũng như rừng thứ sinh nghèo kiệt (rừng gỗ pha tre nứa), thảm tươi dưới tán rừng Chò chỉ thường dày đặc, gồm các loại ẩm sinh như Khoai mài, Sẹ, Lá dong, Quyển bá, Dương xỉ cây bụi có các loài như Bọt ếch, Cơm nguội, Xương gà, Chẩn, Trọng đũa.
Chò chỉ tái sinh tự nhiên ở những nơi có cây mẹ gieo giống, nơi tán rừng không quá rậm. Chò chỉ thường mọc ở những nơi ven khe suối, chân hoặc sườn núi, ẩm, ở độ cao £700 m so với mực nước biển và thích hợp với các loại đất như Feralit đỏ nâu hoặc vàng đỏ phát triển trên các loại đá mẹ Phiến thạch sét, Granit, Phiến thạch mica, có tầng dày, tơi xốp, thành phần chủ yếu là sét pha thịt. Càng lên cao thì màu vàng ở tầng B càng chiếm ưu thế. Hàm lượng mùn tương đối khá ở tầng đất mặt và càng lên cao thì hàm lượng mùn càng tăng (từ 3-7 %). Đất có phản ứng chua và độ bão hoà Bazơ thấp (pHH2Otừ 4-5). Hàm lượng các chất dinh dưỡng P2O5 và K2O dễ tiêu đều nghèo.
3. Giống và tạo cây con
Hạt giống:
Cây trồng 10-12 năm bắt đầu ra quả, nhưng thu hái ở các lâm phần từ 15 tuổi trở lên mới có chất lượng hạt tốt. Chu kỳ sai quả 4-6 năm, ở những năm này tỷ lệ cây ra quả đạt 70-80%. Mùa ra hoa tháng 4-5, mùa quả chín tháng 7-8. Chò chỉ thường ra hoa không đều, có khi 3-4 năm ra hoa một lần, khả năng đậu quả không cao. Quả dễ bị sâu phá hại. Mỗi quả có 3-4 hạt.
Thu hái quả vào tháng 8-9 khi quả chín vỏ mầu nâu nhạt. Hạt và cánh hạt mầu nâu, nhân hạt chắc và có mầu trắng. Thu hái tốt nhất là khi lâm phần có từ 50-60% số cây có quả rụng. Quả thu hái về phải ủ ngay vào cát, tưới nước đều đặn luôn để đống ủ có độ ẩm 80%. Đống ủ không cao quá 50cm và phải để nơi thông gió. Mỗi ngày đảo 1 lần. Bảo quản hạt điều kiện thông thường có thể duy trì sức sống được 1 thời gian nhưng tỷ lệ nảy mầm giảm tương đối nhanh. Sau 1,5 tháng đã mất sức nảy mầm 50-60%. Một kg quả có 300-350 quả, độ thuần > 95%, tỷ lệ nảy mầm <50%.
Gieo ươm:
Dùng vỏ bầu Polyetylen cỡ 8x12cm, không đáy và đục lỗ xung quanh.
Thành phần hỗn hợp ruột bầu gồm: Phân chuồng ủ hoai, supe lân Lâm thao (có hàm lượng P2O5 dễ tiêu 14%) 2%, đất tầng A dưới tán rừng 88%. Đất rừng tầng A, có hàm lượng mùn từ 3% và độ pHKCl = 5-6, thành phần cơ giới là thịt nhẹ, pha cát (sét vật lý 20-25%).
Đất tập kết tại vườn ươm, được đập nhỏ và sàng có đường kính mắt sàng 4mm, loại bỏ rễ cây, sỏi đá, đất sét, rồi vun thành đống cao 15-20cm. Sau đó phun ẩm và phủ vải mưa, giấy bóng ủ 4-5 ngày ngoài nắng.
Luống để xếp bầu rộng 1m, dài 10-20m và cao 15-20cm. Rãnh luống rộng 40-50cm. Xếp bầu theo hàng, cứ 2 hàng để cách 1 hàng. Mật độ bầu trên luống khoảng 260-280 bầu/m2.
Khi rễ cọc phát triển ra ngoài đáy bầu phải tiến hành đảo bầu kết hợp phân loại cây để tiện chăm sóc. Chỉ tiến hành đảo bầu vào những ngày râm mát hoặc có mưa nhỏ.
Hạt sau khi thu hái cần được cắt bỏ bớt 3/4 cánh. Diệt khuẩn bằng cách ngâm hạt trong dung dịch thuốc tím KMnO4 nồng độ 0,1% (1gam thuốc tím pha với 1 lít nước) với thời gian 30 phút. Sau đó ủ hạt trong cát ẩm.
Hàng ngày tiến hành tưới nước cho đến khi hạt nứt nanh thì đem gieo, tránh để nanh quá dài khi gieo có thể bị gẫy mầm.
Có thể gieo hạt thẳng vào bầu. Tạo 1 lỗ sâu 1,5cm giữa bầu và gieo 1 hạt đã nứt nanh, sau đó phủ lớp đất mỏng 3-5mm. Dùng rơm rạ phủ trên mặt luống giữ độ ẩm, tránh nắng.
Khi cây mầm được 5-7 ngày tuổi, dài 1-1,5cm thì bứng cầy vào bầu. Cấy cây vào ngày râm mát hoặc mưa nhẹ, tránh những ngày nắng gắt, gió mùa Đông Bắc. Trước hôm cấy cần tưới nước cho đất ướt đều với lượng 4-6 lít/m2. Sau khi nhổ cần nhúng cây vào bát nước để tránh khô rễ mầm. Cấy đến đâu nhổ đến đấy. Loại bỏ những cây xấu. Dùng que nhọn chọc 1 lỗ sâu 2-3 cm ở giữa bầu, hướng cây mầm sao cho cổ rễ ngang mặt bầu và dùng que ép chặt đất với rễ mầm.
Sau khi cấy xong tiến hành cắm ràng ràng che mặt luống và tưới nước cho cây. Dùng lưới che sáng 50% che cho luống cây.
Tưới nước giữ độ ẩm đất sau khi gieo hoặc cấy cây nếu trời không mưa. Không được để khô luống. Khi hạt mọc, dỡ bỏ rơm rạ phủ mặt luống và cắm ràng ràng che bóng. Từ thời gian hạt chưa bỏ mũ thường xuyên tưới mỗi ngày ít nhất 1 lần vào buổi sáng sớm hoặc buổi chiều. Lượng nước tưới 2-4 lít/m2. Tưới liên tục trong 20 ngày đầu, sau đó chỉ tưới khi đất khô. Ở giai đoạn sau, tuỳ theo tình hình thời tiết mà điều tiết lịch tưới cho phù hợp.
Trước khi xuất vườn 1-2 tháng tuyệt đối không được bón thúc, hạn chế tưới nước để hãm cây.
Sau khi cấy cây 5-10 ngày, cây nào chết cần tiến hành cấy dặm ngay.
Thời gian đầu cứ sau 10-15 ngày cần làm cỏ, kết hợp phá váng 1 lần. Dùng que vót nhọn xới nhẹ phá lớp váng tạo trên mặt bầu, tránh không làm hư tổn đến bộ rễ.
Giai đoạn đầu cần có độ che bóng 50%, sau đó dỡ bỏ dần giàn che. Trước khi xuất vườn 1-2 tháng cần dỡ bỏ hoàn toàn. Có thể bón thúc để thúc đẩy sinh trưởng của cây con trường hợp cây sinh trưởng kém ở các thời điểm cây 120 ngày, 180 ngày, 240 ngày. Sau 15- 20 ngày thúc 1 lần. Dùng loại phân hỗn hợp Đạm Amôn – Supe lân và Cloruakali tưới thúc với tỷ lệ 3N:6P:1K. Hoặc dùng phân Supe lân Lâm Thao khi cây có biểu hiện tím lá. 2 kg bón cho 1000 bầu chia làm 6 lần (Mỗi lần bón 0,340kg/1000bầu). Hoà phân với nồng độ 0,5% (1kg phân/200 lít nước). Tưới dung dịch nước phân bằng bình hương sen. Sau khi tưới phân phải tưới rửa lá bằng nước lã.
Không tưới phân thúc vào những ngày nắng gắt, vào lúc buổi trưa nắng. Tốt nhất nên tưới vào những ngày râm mát hoặc mưa phùn.
Chò chỉ bị Sâu đục nõn và sâu ăn lá cả ở vườn ươm và ngoài rừng trồng. Cách phòng trừ là thường xuyên kiểm tra và bắt sâu vào buổi sáng.
Tiêu chuẩn cây con:
Cây ươm đạt 12-15 tháng tuổi, đường kính cổ rễ 0,5-0,6cm, cao 60-80cm, thân hoá gỗ hoàn toàn, không bị nhiễm sâu bệnh hại, không bị cụt ngọn, không nhiều thân là đủ tiêu chuẩn đem trồng. Không trồng cây khi đã có lá non.
4. Trồng và chăm sóc rừng
Trồng thuần loài hoặc hỗn giao ở nơi còn tính chất đất rừng, có cây bụi, cây gỗ mọc rải rác. Ở nơi đất trống trọc cần trồng cây phù trợ như Cốt khí, Đậu tràm trong giai đoạn đầu.
Trồng hỗn giao giữa Chò chỉ với các loài cây tái sinh mục đích sẵn có trong lâm phần. Trồng theo rạch song song với đường đồng mức. Trong rạch trồng cây phát rộng 2m, dọn sạch cây bụi, cỏ dại, cây tái sinh không mục đích và để lại những cây mục đích khoẻ mạnh có tương lai. Băng chừa để lại rộng 3m. Xử lí thực bì phải được tiến hành trước khi trồng rừng 1 tháng.
Trồng hỗn giao với các loài cây lá rộng bản địa khác như Sấu, Re. Cứ trồng 1 rạch Chò chỉ lại xen tiếp theo 1 rạch loài cây lá rộng thứ hai. Trong rạch trồng cây, phát dọn dây leo, cây bụi, cây tái sinh phi mục đích, chỉ để lại cây mục đích có tương lai.
Trồng thuần loài với mật độ 540 cây/ha, cự li 3,5 x 5 m.
Trồng hỗn giao tỷ lệ 1:1 với các loài Sấu, Re, mật độ 540 cây/ha, cự li 3,5 x 5m. Trong đó có 270 cây Chò chỉ và 270 cây Sấu, Re, 1 hàng Chò chỉ xen 1 hàng Sấu / Re.
Thời vụ trồng: Vụ chính là vụ Xuân từ 10/2 đến 30/3, vụ Hè Thu từ tháng 6 đến tháng 8.
Cuốc hố trồng với kích thước 40 x 40 x 40cm. Các hố bố trí giữa hàng và so le giữa các hàng theo hình nanh sấu. Khi cuốc hố tách riêng phần đất tốt, đất xấu. Vun hố hình mui rùa. Hoàn thành cuốc hố trước lúc trồng rừng 30 ngày.
Bón lót 200g đạm sunfat + 100g supe lân + 100g clrua kali cho mỗi hố khi lấp hố và bón thúc 200g NPK(5:10:3) vào lần chăm sóc thứ nhất.
Trồng cây vào những ngày có mưa nhỏ hoặc râm mát. Tránh trồng vào những lúc trưa nóng hoặc có gió mùa Đông Bắc. Dùng dao lam hay kéo sắc rạch bầu, tránh làm tổn thưởng cây. Dùng cuốc hoặc xẻng bới 1 lỗ giữa hố sâu bằng chiều cao của bầu cây trồng. Đặt cây sao cho cổ rễ ngang mặt hố, rồi vun đất xung quanh cho kín. Có thể dùng tay hoặc chân dẫm chặt xung quanh gốc cây, tránh dẵm vào bầu làm vỡ bầu.
Sau khi trồng rừng, cần được chăm sóc và bảo vệ liên tục cho đến khi rừng khép tán, đặc biệt trong 3 năm đầu.
Năm thứ nhất chăm sóc 2 lần với cây trồng vụ xuân và 1 lần với cây trồng vụ thu. Lần 1 vào tháng 5-6, lần 2 vào tháng 11-12. Trồng dặm những cây đã chết. Phát dọn toàn bộ dây leo, cây bụi cỏ dại và cây phi mục đích trong rạch trồng cây với chiều rộng 2m. Xới đất xung quanh hố với đường kính rộng 40 – 50cm. Tiến hành bón thúc sau đó vun đất xung quanh gốc. Bảo vệ không cho gia súc phá cây.
Năm thứ hai chăm sóc 2 lần, lần 1 vào tháng 5-6, lần 2 vào tháng 11-12. Phát dọn toàn bộ dây leo, cỏ dại, cây bụi và cây phi mục đích trong rạch trồng cây với chiều rộng 2m. Xới đất xung quanh gốc đường kính rộng 50cm, sâu 3 – 4cm, vun gốc. Phát luỗng dây leo, cây sâu bệnh, sau đó đánh dấu những cây mục đích cần nuôi dưỡng ở băng chừa.
Năm thứ ba chăm sóc 2 lần vào đầu và cuối mùa mưa. Phát dọn dây leo, cỏ dại, cây bụi trong rạch trồng cây. Nơi nào cây tái sính ở băng chừa lấn át chèn ép cây trồng thì phải chặt thấp xuống hoặc loại bỏ. Xới đất xung quanh gốc rộng 60cm, sâu 3 – 4cm, vun gốc.
Năm thứ tư tiến hành phát luỗng dây leo, loại bỏ cây sâu bệnh, cây bụi, cây tái sinh phi mục đích chèn ép cây trồng và cây mục đích trên toàn bộ lô trồng rừng. Những khoảng trồng không có cây mục đích, cần giữ lại cây tái sinh, cây bụi thảm tươi để phòng hộ.
Khi cây rừng đạt chiều cao 3-5m, phải bảo vệ không để cháy rừng. Những nơi có thực bì rậm rạp, cần phát luỗng thực bì dọn ra khỏi rừng trước mùa hanh khô. Điều chỉnh không gian dinh dưỡng: Khi cây trồng bị cây bụi hoặc cây tái sinh phi mục đích chèn ép cần tiến hành phát loại bỏ những cây chèn ép. Tỉa những cành khô, những cành thấp không có khả năng quang hợp.
Khi cây rừng chuẩn bị khép tán vào năm thứ 4-5, trường hợp mật độ đủ, cần chặt bỏ những cây cong queo, sâu bệnh, cụt ngọn, nhiều thân, còi cọc, tán lệch.
Khi cây rừng đạt 8-10 tuổi, tiếp tục loại bỏ những cây cong queo, sâu bệnh, cụt ngọn, tán lệch, nhiều thân.
5. Khai thác, sử dụng
Gỗ Chò chỉ cứng, thớ thẳng, mịn, nặng, tỷ trọng 0,83, xếp nhóm V. Gỗ có giác lõi phân biệt, giác màu xám trắng, lõi màu hồng, không bị mối mọt, chịu nước nên được dùng để đóng đồ, làm gỗ xây dựng và đóng tàu thuyền.
Tin mới nhất
- Hội nghị “Thúc đẩy thí điểm cấp, quản lý mã số vùng trồng rừng nguyên liệu và khởi động dự án FCBMO”
- Hội đồng tổng kết nhiệm vụ Khoa học Công nghệ cấp tỉnh: Nghiên cứu trồng rừng thâm canh cây Sồi phảng (Lithocapus fissus Champ. Ex Benth) cung cấp gỗ lớn ở Quảng Ninh
- Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình phối hợp công tác giữa Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Tuyên Quang với Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, giai đoạn 2021 - 2025
- PGS.TS Hoàng Văn Thắng - Viện trưởng Viện nghiên cứu Lâm Sinh - Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam được tôn vinh :” Nhà khoa học của nhà nông 2024”
- Điều động, bổ nhiệm Phó Trưởng ban Khoa học, Đào tạo và Hợp tác quốc tế