NGHIêN CứU MốI QUAN Hệ GIữA HìNH THáI Vỏ QUả Và PHẩM CHấT GIEO ươM HạT GIốNG LOàI CăM XE (XYLIA XYLOCARPA)

NCS Vương Hữu Nhi

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam

Căm xe (Xylia xylocarpa Taub) là loài cây bản địa phân bố ở các tỉnh Nam Trung bộ, Đông Nambộ và Tây Nguyên. ở Đăk Lăk Căm xe phân bố trong các dạng rừng bán thường xanh và rừng khộp, là loài cây đa tác dụng, không những gỗ tốt có giá trị cao trên thị trường trong nước và thế giới, mà sản phẩm ngoài gỗ như vỏ còn được dùng làm dược liệu và hạt có thể sử dụng làm thực phẩm.

Căm xe đã gây trồng thành công ở EaKmat (Dăk Lăk), Trảng Bom (Đồng Nai), Lang Hanh (Lâm Đồng) nhưng các nghiên cứu gây trồng về loại cây này còn rất ít. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hình thái vỏ quả và phẩm chất gieo ươm là một việc làm cần thiết, nhằm góp phần đề xuất thời kỳ thu hái hạt giống được nhiều và có phẩm chất gieo ươm tốt phục vụ trồng rừng ở Đăk Lăk.

I. Nội dung, vật liệu và phương pháp nghiên cứu

1. Nội dung nghiên cứu

Mối quan hệ giữa hình thái vỏ quả và:

– Kích thước hạt giống.

– Trọng lượng hạt.

– Độ thuần hạt.

– Tỉ lệ nảy mầm

2. Vật liệu

– Hạt giống được thu hái từ 3 cây mẹ có D1,3 từ 20-25cm, đã được đánh dấu theo dõi ở Ea Vy, Đăk Lăk để nghiên cứu các chỉ tiêu về hạt giống.

– Dùng cân điện tử độ chính xác 0.01g để cân trọng lượng hạt.

3. Phương pháp nghiên cứu

– Thu hái quả phân làm 3 loại: Vỏ quả còn xanh, vỏ quả chín vàng, vỏ quả khô bắt đầu nứt; phơi khô tách hạt phân làm 3 lô hạt khác nhau.

– Rút mẫu ngẫu nhiên ở 3 lô hạt của 3 thời kỳ vỏ quả khác nhau, dung lượng mẫu mỗi công thức cho một lần lặp n = 32 hạt, bố trí 3 lần lặp, đo các chỉ tiêu chiều dài, rộng, dày của hạt.

– Trọng lượng: Rút mẫu ngẫu nhiên ở 3 lô hạt, lặp lại 3 lần mỗi lần1000 hạt để cân.

Trọng lượng hạt thuần

Độ thuần (%) = x 100

Trọng lượng hạt đem kiểm nghiệm

Rút mẫu ngẫu nhiên ở 3 lô hạt cho 3 lần lặp, dung lượng mẫu mỗi công thức là 200g, phân loại và cân để kiểm tra độ thuần.

Số hạt nảy mầm

– Tỉlệ nảy mầm (%) = x100

Số hạt đem thí nghiệm

Rút mẫu ngẫu nhiên ở 3 lô hạt của 3 thời kỳ vỏ quả khác nhau, dung lượng mẫu cho mỗi công thức cho 1 lần lặp n =”100″ hạt đem ngâm nước 500C trong 12 giờ, ủ hạt trong vải hằng ngày rửa chua và kiểm tra hạt nảy mầm, thời gian theo dõi 7 ngày.

Sử dụng thống kê toán học phân tích phương sai, dùng tiêu chuẩn U,c2và trắc nghiệm đa đoạn Dun Can để so sánh các trung bình mẫu.

II. Kết quả nghiên cứu

1. Mối quan hệ giữa hình thái vỏ quả và kích thước hạt giống

CT1: Hạt giống ở lô vỏ quả còn xanh

CT2: Hạt giống ở lô vỏ quả chín vàng

CT3: Hạt giống ở lô vỏ quả chín khô bắt đầu nứt

Kết quả đo đếm thu được ghi ở bảng 1.

Bảng 1. Mối quan hệ giữa hình thái vỏ quả và kích thước hạt giống

Công thức CT1 (mm) CT2 (mm) CT3 (mm)
Lần lặp Dài rộng dày

Dài

rộng dày Dài rộng dày
Lần lặp 1 14.20 10.22 2.40 15.32 10.94 3.19 15.72 11.09 3.21
Lần lặp 2 14.58 9.98 2.30 15.64 10.73 3.21 16.12 11.13 3.25
Lần lặp3 14.64 10.28 2.42 16.00 11.11 3.23 15.64 10.77 3.19
TB 14.47 10.16 2.37 15.65 10.93 3.21 15.82 11.00 3.22
Hình thái màu sắc hạt Vỏ hạt nhăn, có màu vàng nhạt Vỏ hạt trơn láng, có màu nâu Vỏ hạt trơn láng, có màu nâu

Kiểm tra sự sai khác kích thước hạt giống qua hình thái vỏ quả bằng phân tích phương sai 2 nhân tố.

Kết quả phân tích cho thấy có Ftính dài, rộng và dày = 16,07;15,23 và 286.06 > hơn F0,5 bảng = 6,94 điều này chứng tỏ hình thái vỏ quả ảnh hưởng đến kích thước hạt là có ý nghĩa.

Dùng trắc nghiệm đa đoạn Dun Can cho thấy kích thước của hạt giống thu hái ở công thức 1 sai khác với công thức 2 và 3 là có ý nghĩa, sự sai khác của công thức 2 và 3 là không có ý nghĩa. Như vậy chọn công thức 2 và 3 để thu hái, hạt có kích thước lớn nhất.

2. Trọng lượng 1000 hạt

Thí nghiệm được bố trí rút mẫu ngẫu nhiên 3 công thức, với 3 lần lặp.

CT1: Trọng lượng 1000 hạt lô vỏ quả còn xanh.

CT2: Trọng lươnùg 1000 hạt lô vỏ quả chín vàng.

CT3: Trọng lượng 1000 hạt lô vỏ quả bắt đầu khô nứtõ.

Kết quả thu được ghi nhận ở bảng 2.

Bảng2. Trọng lượng 1000 hạt

Mẫu CT1:(g) CT2:(g) CT3:(g)
Lần lặp 1 265,65 321,54 322,64
Lần lặp 2 255,72 315,73 320,51
Lần lặp 3 260,61 318,14 318,14
TB 260,44 318,47 320,43

Kiểm tra sự sai khác trọng lượng 1000 hạt ở các công thức trên bằng phân tích phương sai 1 nhân tố 3 lần lặp.

Kết quả phân tích cho thấy Ftính = 271.049 > Fbảng(0,05) = 5.143, chứng tỏ rằng trọng lượng 1000 hạt ở các công thức trên sai khác có ý nghĩa. Dùng tiêu chuẩn đa đoạn DUN CAN để so sánh các kết quả cho thấy: Trọng lượng lô hạt công thức 1 sai khác với công thức 2 và 3 là có ý nghĩa, sự sai khác của công thức 2 và 3 là không có ý nghĩa.

Như vậy lô hạt công thức 2 và 3 nặng hơn, chứng tỏ sự tích luỹ chất hữu cơ cao nhất.

Lô hạt vỏ quả còn xanh trọng lượng trung bình 1000 hạt biến động từ 255,65 – 265,65g; Trọng lượng 1000 hạt ở lô vỏ quả chín vàng và quả bắt đầu nứt biến động từ 318.14g – 322,64g; 1 kg hạt ở lô vỏ quả còn xanh có khoảng 3800 – 4.000 hạt; 1kg hạt ở lô vỏ quả chín vàng và vỏ quả khô bắt đầu nứt có khoảng 3000 – 3200 hạt.

3. Độ thuần hạt

Độ thuần hạt giống là một chỉ tiêu quan trọng của phẩm chất hạt giống, nếu độ thuần của hạt thấp nó ảnh hưởng rất lớn đến tỉ lệ nảy mầm và cho cất trữ.

Kết quả kiểm nghiệm 3 lô hạt giống được ghi ở bảng 3

Bảng 3. Độ thuần hạt

C/thức Chỉ tiêu Mẫu1 Mẫu 2 Mẫu 3 TB
1: Hạt ở lô vỏ quả còn xanh Trọng lượng mẫu (g) 200,00 200,00 200,00 200,00
Trọng lượng hạt thuần (g) 124,05 130,14 120,60 124.93
Hạt lép và tạp chất (g) 75,95 69.86 79,40 75.07
Độ thuần (%) 62,02 65,07 60,60 62.46
2: Hạt ở lô vỏ quả chín vàng Trọng lượng hạt thuần (g) 182,32 172,08 176,66 177,02
Hạt lép và tạp chất (g) 17,68 27,92 23,34 22.98
Độ thuần (%) 91,16 86,04 88,33 88.51
3: Hạt ở lô vỏ quả khô bắt đầu nứt Trọng lượng mẫu (g) 200,00 200,00 200,00 200,00
Trọng lượng hạt thuần (g) 174,51 186,14 172,82 177.82
Hạt lép và tạp chất (g) 25,49 13,86 27,18 22,18
Độ thuần (%) 87,25 93,07 86,44 88.91

Kiểm tra độ thuần của 3 lô hạt bằng tiêu chuẩn c2, kết quả c2tính=”57,32″ . > c205tra bảng = 5.99, như vậy độ thuần của 3 lô hạt khác nhau có ý nghĩa, so sánh 2 trung bình mẫu của CT2 và CT3 bằng tiêu chuẩn U, kết quả Utính = 0,126 < 1,96 chứng tỏ rằng 2 lô trên độ thuần sai khác không có ý nghĩa.

Từ kết quả ở bảng 3 cho thấy độ thuần trung bình của hạt giống ở công thức 2 và 3 chiếm tỉ lệ khá cao (từ 86,04 –93,07%), gấp 1,4 lần so với độ thuần hạt giống ở công thức 1 ( 60.60 – 65.07%).

4. Tỉ lệ nảy mầm hạt giống

Năng lực nảy mầm của hạt là chỉ tiêu quan trọng nhất của phẩm chất gieo ươm. Tìm hiểu về tỉ lệ nảy mầm để tính toán thời kỳ thu hái hạt giống phù hợp nhằm thu được nhiều hạt và có phẩm chất gieo ươm tốt.

Kết quả thí nghiệm được ghi ở bảng 4.

Bảng 4. Tỷ lệ nảy mầm

Stt Công thức Mẫu 1 (%) Mẫu 2 (%) Mẫu 3 (%) TB
1 Hạt ở lô vỏ quả còn xanh 45 47 43 45,00
2 Hạt ở lô vỏ quả chín vàng 86 90 93 89,66
3 Hạt ở lô vỏ quả bắt đầu nứt 88 91 92 90.33

Dùng tiêu chuẩn c2 để kiểm tra sự khác nhau về tỉ lệ nảy mầm của các lô hạt.

Kết quả tính toán c2 tính = 216,01 > c2 bảng(0,05,2) = 5,99. Như vậy tỉ lệ nảy mầm của các lô hạt sai khác có ý nghĩa. Để tìm lô hạt giống có tỉ lệ nảy mầm cao nhất, tiếp tục dùng tiêu chuẩn U để so sánh 2 trung bình mẫu ở công thức 2 và 3. Kết quả tính toán có được Utính = 0,279 < 1,96 . Vậy công thức 2 và 3 tỉ lệ nảy mầm sai khác không có ý nghĩa.

Từ kết quả ở bảng 4 cho thấy khả năng nảy mầm của lô hạt thu hái khi vỏ quả chín vàng và quả bắt đầu khô nứt có tỉ lệ nảy mầm trung bình khoảng 90%, gấp 2 lần so với lô hạt hái khi quả còn xanh.

III. Kết luận

Hạt giống Căm xe thu hoạch khi vỏ quả còn xanh có kích thước hạt nhỏ, trọng lượng nhẹ, độ thuần thấp, tỉ lệ nảy mầm thấp, vỏ hạt nhăn nheo.

Hạt giống Căm xe thu hái vào thời kỳ quả đã chín vàng và quả khô bắt đầu nứt có kích thước hạt lớn hơn: dài trung bình 15.32 – 16.12mm, rộng 10.7–11,11mm, dày 3.19 – 3.25mm, vỏ hạt trơn láng và có màu nâu, trọng lượng trung bình 1000 hạt 315,14 – 322,64g, độ thuần khoảng 86,3 – 93,07% và tỉ lệ nảy mầm đạt 86 – 93%.

Như vậy, đối với hạt Căm xe khi quả chín vàng thu hoạch là tốt nhất vì khi đó hạt đã chín hoàn toàn, chất hữu cơ đã tích luỹ đầy đủ thể hiện kích thước hạt lớn, trọng lượng nặng, độ thuần hạt cao, tỉ lệ hạt nảy mầm cao. Còn khi lấy muộn quả khô bắt đầu nứt chất lượng hạt cũng tốt nhưng khi đó quả khô dễ bị nổ hạt phát tán làm sản lượng giảm.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Hải Tuất (1982), Thống kê toán học trong lâm nghiệp, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

2. Nguyễn Hải Tuất, Ngô Kim Khôi (1906), Xử lý thống kê kết quả nghiên cứu thực nghiệm trong nông lâm nghiệp trên máy vi tính, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

3. Trường Đại học Lâm nghiệp (1992), Lâm học tập II.

Summary

Best collection of X. xulocarpa seed starts when the fruit coat turns yellow. Average length, width and thickness of the seed are 15.32-16.12mm, 10.73-11.11mm and 3-3.2mm respectively. Weight of 1,000 seeds if 320g, average puritity of the seed is about 86.3-93.07%. Average germination rate is about 90%, the seed coat is smooth, shiny and brown in colour.

II. KINH Tế LÂM NGHIệP

Tình hình quản lý vùng đệm và vùng lõi các khu rừng

đặc dụng hiện nay ở Việt Nam

Võ Nguyên Huân

Viện Khoa học Lâm nghiệp ViệtNam

1. Cơ chế quản lý, cấp quản lý vùng đệm

ở Việt Nam, trước năm 1993 vùng đệm được quy định nằm trong khu bảo tồn. Từ 1993 tới nay, vùng đệm được quy định nằm ngoài KBT và không thuộc KBT. Tuy trên các văn bản của Nhà nước quy định như vậy, song trong thực tế chưa có cơ chế quản lý và cấp quản lý vùng đệm. Điều này được lý giải do thiếu các cơ sở sau:

– Vùng đệm chưa được xác định rõ ràng ranh giới trên bản đồ cũng như trên thực địa, chưa có mốc kiên cố phân định vùng đệm với KBT và các vùng khác.

– Chưa có quy hoạch sử dụng đất riêng cho vùng đệm.

– Phần lớn vùng đệm chưa giao đất giao rừng cho các thành phần kinh tế và chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ.

– Chưa phân định rõ các loại đất đai trong vùng đệm (đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp…), các loại rừng (rừng phòng hộ, rừng sản xuất…); đồng thời cũng chưa thống kê được các loài thực vật và động vật quan trọng nhất trong vùng đệm cần được bảo vệ.

– Chưa xác định được những vùng nhạy cảm, dễ bị tổn thương để có cơ chế quản lý thích hợp trong vùng đệm.

– Chưa xác định được những nhân tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế – xã hội vùng đệm.

– Chưa chấm dứt được tình trạng di dân tự do vào vùng đệm…

Thực tế hiện nay là đất vùng đệm và đất không phải của vùng đệm ở ngoài KBT đều do chính quyền địa phương hoặc các đơn vị kinh tế trực tiếp quản lý. Việc quản lý vùng đệm và các vùng đất khác đều như nhau, không có gì phân biệt.

Trong các văn bản của Nhà nước chưa đề cập đến việc ai chịu trách nhiệm xây dựng dự án vùng đệm, ai là chủ đầu tư dự án vùng đệm, vốn đầu tư cho vùng đệm được cung cấp từ nguồn nào và cơ chế quản lý vốn đầu tư như thế nào?…

Việc phân cấp quản lý, bộ máy quản lý, nhiệm vụ và quyền hạn của Ban quản lý dự án vùng đệm như thế nào cũng chưa được đề cập đến.

Mục tiêu, nội dung và cơ chế quản lý vùng đệm chưa rõ ràng. Chưa phân định cơ quan nào chịu trách nhiệm chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra các hoạt động của dự án vùng đệm.

Tóm lại, cho tới nay Nhà nước chưa có cơ chế và chính sách riêng, thích hợp cho quản lý vùng đệm trong phạm vi toàn quốc.

2. Mối quan hệ hiện tại giữa các bên tham gia trong quản lý khu bảo tồn và vùng đệm. Trách nhiệm của mỗi bên liên quan

Hiện nay hệ thống rừng đặc dụng được phân cấp quản lý cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Văn hoá – Thông tin và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh như sau:

– Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý thống nhất toàn bộ hệ thống rừng đặc dụng trong phạm vi cả nước, bao gồm:

+ Lập quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng trình Chính phủ phê duyệt; trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các chính sách, chế dộ, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới công tác quản lý (theo dõi, chỉ đạo việc điều tra và báo cáo tình hình về diễn biến tài nguyên rừng), bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng; tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ kỹ thuật, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác quản lý, bảo vệ và xây dựng rừng đặc dụng.

+ Trực tiếp quản lý các VQG có tầm quan trọng đặc biệt hoặc nằm trong phạm vi nhiều tỉnh.

+ Phối hợp với Bộ Thuỷ sản trong việc tổ chức, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ thuật thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quản lý, bảo vệ tài nguyên thuỷ sinh vật ở các VQG và KBTTN có hệ sinh thái nước.

– Bộ Văn hoá – Thông tin trực tiếp quản lý và tổ chức xây dựng các khu rừng văn hoá – lịch sử – môi trường đã được xếp hạng cấp quốc gia hoặc được quốc tế công nhận, để phục vụ cho các mục tiêu tham quan du lịch văn hoá lịch sử. Đồng thời Bộ Văn hoá – Thông tin có trách nhiệm phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức xây dựng, quản lý, bảo vệ những khu rừng này.

– Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trực tiếp quản lý các khu rừng đặc dụng còn lại trong hệ thống các khu rừng đặc dụng.

Mỗi khu rừng đặc dụng phải có quy hoạch định hình để phát triển, trên cơ sở quy hoạch để xây dựng dự án đầu tư trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Những khu rừng đặc dụng có diện tích tập trung từ 1.000 ha trở lên (trường hợp đặc biệt có thể nhỏ hơn 1.000 ha), được thành lập ban quản lý, hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp kinh tế có thu. Ban quản lý là chủ rừng, được giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ và xây dựng khu rừng được giao.

Những khu rừng đặc dụng có diện tích tập trung từ 15.000 ha trở lên, được tổ chức Hạt Kiểm lâm trực thuộc Ban quản lý rừng đặc dụng, đồng thời chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan kiểm lâm cấp tỉnh (nơi đóng trụ sở Ban quản lý rừng đặc dụng).

Những khu rừng đặc dụng có diện tích nhỏ hơn 1000 ha (trừ trường hợp đặc biệt) không thành lập ban quản lý mà giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (gọi chung là chủ rừng) quản lý, bảo vệ, xây dựng theo quy định của pháp luật.

Trường hợp những khu rừng đặc dụng chưa giao cho chủ cụ thể, Uỷ ban nhân dân huyện chịu trách nhiệm chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các xã sở tại tổ chức quản lý, bảo vệ và xây dựng rừng; đồng thời lập thủ tục trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt để giao đất, giao rừng cho các chủ rừng nêu trên quản lý, bảo vệ và xây dựng rừng đặc dụng.

Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban quản lý rừng đặc dụng

– Ban quản lý rừng đặc dụng chịu trách nhiệm trước Nhà nước về quản lý, bảo vệ, xây dựng và sử dụng khu rừng đặc dụng theo quy chế quản lý rừng đặc dụng và các quy định của pháp luật; tổ chức quản lý, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; khôi phục và bảo tồn nguyên vẹn các hệ sinh thái ; bảo tồn tính đa dạng sinh học của khu rừng đặc dụng, gồm: Thực hiện các biện pháp nhằm phát triển bền vững tài nguyên sinh vật, tài nguyên đất, tài nguyên nước, đồng thời phối hợp với cấp chính quyền sở tại để bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên khác; thực hiện các biện pháp phòng, chữa cháy rừng, phòng trừ sâu bệnh hại rừng, ngặn chặn các hành vi gây thiệt hại đến khu rừng đặc dụng.

– Lập dự án bổ sung đầu tư xây dựng khu rừng đặc dụng đồng thời dự toán chi phí hàng năm cho các hoạt động của đơn vị để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; quản lý sử dụng kinh phí đầu tư từ ngân sách Nhà nước theo các quy định hiện hành.

– Tổ chức thực hiện các nội dung theo dự án đầu tư của khu rừng đặc dụng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; tổ chức các hoạt động về hợp tác quốc tế theo sự phân công của các cơ quan có thẩm quyền và theo các quy định hiện hành của Nhà nước về lĩnh vực này.

– Xây dựng và tổ chức thực hiện quy định hoạt động của khu rừng đặc dụng theo hướng dẫn của cơ quan chủ quản.

– Định kỳ báo cáo cấp trên về tình hình diễn biến tài nguyên rừng và các hoạt động của khu rừng đặc dụng.

– Được tiến hành các hoạt động dịch vụ nghiên cứu khoa học, văn hoá, xã hội và du lịch sinh thái theo quy định của pháp luật.

Để ngăn chặn những tác động có hại đối với VQG và KBTTN phải có các vùng đệm. Mọi hoạt động trong vùng đệm phải nhằm mục đích hỗ trợ cho công tác bảo tồn, quản lý và bảo vệ khu rừng đặc dụng; hạn chế di dân từ bên ngoài vào vùng đệm; cấm săn bắn, bẫy bắt các loài động vật và chặt phá các loài thực vật hoang dã là đối tượng bảo vệ.

Dự án đầu tư xây dựng và phát triển vùng đệm được phê duyệt cùng với dự án đầu tư của khu rừng đặc dụng. Chủ đầu tư dự án vùng đệm có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan, đơn vị, các tổ chức kinh tế – xã hội trên địa bàn của vùng đệm, đặc biệt là với Ban quản lý rừng đặc dụng để xây dựng các phương án sản xuất lâm – nông – ngư nghiệp, định canh, định cư, trên cơ sở có sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện để ổn định và nâng cao đời sống của người dân.

3. Nhận xét, đánh giá

– Về tổ chức: Hiện nay ở tầm vĩ mô chưa có một tổ chức nào hợp lý, có bộ máy chuyên trách về quản lý hệ thống rừng đặc dụng trong cả nước để giúp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý. Các cục, vụ chức năng giải quyết việc riêng rẽ, ít có sự phối hợp.

– Về phân cấp quản lý rừng đặc dụng còn chưa rõ ràng dẫn tới việc quản lý lỏng lẻo hoặc chồng chéo: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trực tiếp quản lý 7 VQG, UBND tỉnh quản lý 6 VQG và các KBT. Nhiều tỉnh giao cho Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hoặc Chi cục Kiểm lâm, song cũng có tỉnh lại giao cho Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường trực tiếp quản lý. Đối với các khu rừng văn hoá – lịch sử – môi trường, hiện tồn tại hai hệ thống quản lý: Ngành văn hoá, du lịch quản lý di tích hoặc thắng cảnh; ngành lâm nghiệp quản lý rừng.

– Mỗi khu rừng đặc dụng được Nhà nước công nhận, đều phải thành lập Ban quản lý, kể cả những khu rừng đặc dụng “đặc biệt” có diện tích nhỏ hơn 1000 ha. Hiện nay cả nước có 92 khu rừng đặc dụng đã được thành lập, nhưng chỉ mới có 48 khu có Ban quản lý và dự án đầu tư. Các khu rừng đặc dụng còn lại thường được giao cho Hạt kiểm lâm huyện quản lý, bảo vệ. Do thiếu cơ quan chuyên trách quản lý nên tài nguyên rừng nhiều nơi bị suy giảm.

– Đối với những khu rừng đặc dụng có diện tích nhỏ hơn 1000 ha nhưng không phải là “đặc biệt”, chúng tôi khuyến nghị không nên quy hoạch là rừng đặc dụng nữa mà chuyển đổi mục đích sang rừng sản xuất hoặc rừng phòng hộ và quản lý theo quy chế rừng sản xuất hoặc rừng phòng hộ.

– Chưa phân định rõ ranh giới giữa KBT với vùng đệm, nhiều nơi chưa có cột mốc kiên cố trên thực địa như Luật Bảo vệ và Phát triển rừng quy định, vì vậy gặp không ít khó khăn trong quản lý.

– Nguồn vốn đầu tư cho các khu rừng đặc dụng còn rất hạn chế. Đa số các khu rừng đặc dụng chỉ đủ kinh phí để duy trì bộ máy mà thiếu kinh phí cho các hoạt động quản lý.

– Phần lớn các Ban quản lý khu rừng đặc dụng chưa được giao đất giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Với danh nghĩa là chủ quản lý, chủ rừng song lại chưa được giao đối tượng để quản lý.

– Hầu hết các khu rừng đặc dụng chưa có dự án đầu tư vùng đệm. Một số ít khu rừng đặc dụng tuy đã có dự án đầu tư vùng đệm, song ngân sách Nhà nước cấp hàng năm không đủ như kế hoạch đề ra trong dự án, vì vậy chủ dự án gặp không ít khó khăn khi thực hiện.

– Đối với vùng đệm cho tới nay chưa được phân định rõ ràng, chưa có cấp quản lý và cơ chế quản lý cụ thể. Thực tế khảo sát cho thấy có nhiều cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ hoặc một phần nhiệm vụ quản lý rừng và đất lâm nghiệp trong vùng đệm. Những cơ quan này bao gồm: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Chi cục Kiểm lâm; Sở Địa chính; các Lâm trường quốc doanh; các Ban quản lý rừng phòng hộ; các Trung tâm, Trạm, Trại; các Uỷ ban nhân dân cấp huyện và xã. Kết quả là có sự chồng chéo về quyền hạn và nhiệm vụ, gây ra sự lẫn lộn và không rõ ràng giữa tất cả các bên liên quan.

– Hạn chế và tồn tại lớn nhất ở các VQG và KBT là ít có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức ở địa phương. Nếu có sự phối hợp thì phần lớn cũng chỉ là hình thức. Thực chất Ban quản lý khu rừng đặc dụng cũng chỉ lo quản lý vùng lõi, ít quan tâm phát triển kinh tế địa phương; còn các xã ở vùng đệm cũng chỉ lo phát triển kinh tế, văn hoá của xã, ít quan tâm đến bảo vệ VQG hoặc KBT.

– Trong quyết định 245/TTg của Thủ tướng Chính phủ có quy định 8 nhiệm vụ mà cấp xã phải thực hiện về quản lý rừng và đất lâm nghiệp. Nhưng đến nay, việc tổ chức và bố trí cán bộ ở cấp xã chưa tạo được điều kiện để UBND xã thực hiện các nhiệm vụ đã quy định.

Vấn đề đặt ra hiện nay là cần có một cơ quan chuyên trách quản lý các hoạt động của hệ thống rừng đặc dụng trong cả nước từ việc xây dựng dự án KBT, dự án vùng đệm, chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ đến việc theo dõi, kiểm tra các hoạt động của chủ dự án. Đối với dự án phát triển kinh tế – xã hội vùng đệm (nếu có) thì nên thành lập 1 Ban quản lý dự án bao gồm đại diện của KBT, lâm trường và chính quyền điạ phương để quản lý, chỉ đạo mọi hoạt động của chủ dự án.

Tài liệu tham khảo

1. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 1991.

2. Báo cáo tổng kết công tác quy hoạch, tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng (1997).

3. Phát triển bên vững vùng đệm khu BTTN và VQG. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội 1999.

4. Quyết định số 08/2001/QĐ – TTg ngày 11/1/2001của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên.

Summary

The paper deals with the management mechanism and the management authorities, the relation at present between various sides participating in the management of conservation areas and the buffer zones. After briefly reviewing the responsibility and right of related authorities and branches in the management of the conservation areas and the buffer zones, the author gives some remarks and evaluation and wishes there be a specialized organization in charge of the activities of the special use forest system in the whole country

Tin mới nhất

Các tin khác

[logo-slider]