Nguyễn Hoàng Nghĩa
Viện Khoa học Lâm nghiệp VN
Việt Nam là một nước nhiệt đới nằm ở vùng Đông Nam á, có tổng diện tích lãnh thổ khoảng 331.220 km2, kéo dài từ vĩ độ 8 o Bắc tới vĩ độ 23 o Bắc, trong đó diện tích rừng và đất rừng là 19 triệu ha, chiếm khoảng 60% diện tích toàn quốc (Tổng cục Thống kê, 1994). Số liệu liên quan đến diện tích rừng cho đến tháng 4 năm 2000 được thống kê như sau (Báo Nhân dân, 23-4-2000):
· Rừng tự nhiên : 9.494.000 ha
· Rừng trồng : 1.390.469 ha
· Tổng diện tích rừng: 10.884.469 ha, độ che phủ đạt 33,31%.
Hệ thực vật rừng Việt Namrất phong phú và đa dạng. Chỉ riêng ngành Khuyết thực vật (Ptesidophyta), ngành Hạt trần (Gymnospermae) và ngành Hạt kín (Angiospermae) đã có khoảng 11.000 loài của trên 2.500 chi. Từ xa xưa nhân dân ta đã sử dụng hàng ngàn loài cây làm lương thực, thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, thuốc chữa bệnh, nguyên liệu, cây cảnh và các mục tiêu khác. Năm 1993, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật đã giới thiệu khoảng 1.900 loài cây có ích ở nước ta thuộc gần 1.000 chi, 230 loài họ; song chắc chắn con số này còn tăng lên nữa nhờ các nghiên cứu, điều tra tỉ mỉ hơn trong tương lai. Riêng đối với cây thuốc, các nghiên cứu điều tra gần đây cho thấy có khoảng trên 3.000 loài được sử dụng vào chữa bệnh.
Một thực tế đáng lo ngại là diện tích rừng tự nhiên của nước ta đã bị giảm đi đáng kể. ước tính có khoảng trên dưới 100.000 ha rừng bị mất đi mỗi năm. Theo Kế hoạch Hành động Đa dạng Sinh học (1995), nước ta có khoảng 28% loài thú, 10% loài chim và 21% bò sát và động vật lưỡng cư đang phải đương đầu với tình trạng tuyệt chủng. Do tầng cây che phủ bị phá bỏ mà mặt đất bị tác động trực tiếp của khí quyển; chu trình C, N và P, và động thái của vật chất hữu cơ cũng bị ảnh hưởng. Diện tích che phủ rừng bị giảm sút, gây xói mòn, lũ lụt và hạn hán ở Việt Nam. Bảo tồn nguồn gen cây rừng gắn với bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên và bảo vệ sự đa dạng sinh học, đặc biệt là bảo vệ nguyên vẹn các hệ sinh thái rừng đang trở thành một yêu cầu cấp bách và đặc biệt quan trọng ở nước ta.
I. Các cố gắng hướng tới bảo tồn nguồn gen cây rừng và bảo vệ đa dạng sinh học.
Những cố gắng đầu tiên nhằm bảo tồn thiên nhiên được bắt đầu từ đầu những năm 1960 với việc hình thành vườn quốc gia đầu tiên trong cả nước: Vườn quốc gia Cúc Phương vào tháng 7 năm 1962. Năm 1972, Pháp lệnh về bảo vệ rừng đã dẫn đến việc xây dựng hệ thống kiểm lâm với đội ngũ 10.000 cán bộ kiểm lâm trên khắp cả nước. Cũng trong pháp lệnh này, đã nhắc đến lần đầu tiên khái niệm rừng cấm.
Trên cơ sở quyết định 194/CT của Hội đồng Bộ trưởng ký ngày 9/8/1986, Nhà nước đã thành lập hệ thống rừng đặc dụng gồm 87 rừng cấm trong khắp cả nước với tổng diện tích đạt khoảng 1 triệu ha và ba loại hình rừng chính là: Vườn quốc gia, Khu bảo tồn thiên nhiên và rừng Văn hóa – Lịch sử – Môi trường. Hiện nay hệ thống rừng đặc dụng này đã bao gồm trên 100 rừng cấm trong đó có 12 Vườn quốc gia là Ba Bể, Ba Vì, Bạch Mã, Bến En, Cát Bà, Cát Tiên, Côn Đảo, Cúc Phương, Phú Quốc, Tam Đảo, Yordon và Tràm Chim. Năm 1991, Nhà nước ban hành Luật bảo vệ và phát triển rừng và năm 1994 là Luật bảo vệ môi trường cũng như nhiều văn bản dưới luật khác đã là cơ sở pháp lý cơ bản cho công tác xây dựng và quản lý hệ thống rừng đặc dụng này. Năm 1991, Chương trình Hành động Lâm nghiệp Nhiệt đới đã ra đời góp phần quy hoạch tổng thể đất lâm nghiệp trong phạm vi toàn quốc. Với cố gắng của nhiều nhà khoa học, Sách đỏ Việt Nam đã được soạn thảo trong đó Tập I, phần động vật (xuất bản năm 1992) bao gồm 347 loài; Tập II, phần thực vật (xuất bản năm 1996) gồm 350 loài hiếm và có nguy cơ bị đe doạ.
Chính phủ đang dự kiến quy hoạch 2 triệu ha rừng, bằng 10% diện tích đất rừng và 6% diện tích lãnh thổ để xây dựng hệ thống rừng đặc dụng bao gồm 194 khu trong đó có các khu bảo tồn biển.
Về mặt quốc tế, Việt Nam đã tham gia nhiều chương trình như Chương trình con người và sinh quyển (MAB – Man and Biosphere) của UNESCO, Công ước RAMSAR (Công ước quốc tế bảo vệ đất ngập nước ) mà khu bảo vệ Xuân Thuỷ (Nam Định) đã được ghi vào danh sách Các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi ở của chim nước vào năm 1989 và Việt Nam trở thành thành viên thứ 50 của công ước này. Việt Nam cũng đã tham gia ký công ước CITES (Công ước quốc tế về buôn bán các động thực vật hoang dại bị đe doạ) vào năm 1994 và như vậy nước ta cũng đứng vào đội ngũ quốc tế kiểm soát và quản lý việc buôn bán các loài hoang dại. Năm 1993, Việt Namký Công ước về Đa dạng sinh học, cam kết hỗ trợ các cố gắng bảo tồn trên thế giới và ở trong nước. Công ước đã được phê chuẩn vào tháng 10/1994 và do vậy Việt Namđang hành động theo tinh thần của Công ước này.
II. Những vấn đề liên quan đến cơ chế chính sách.
Một số vấn đề quan trọng chưa được quan tâm trong lĩnh vực bảo tồn nguồn gen cây rừng và bảo tồn đa dạng sinh học đó là:
· Nhiều loài động vật, một số loài thực vật rừng hoặc xuất xứ có nguy cơ bị tiêu diệt còn nằm ngoài hệ thống rừng đặc dụng; nhiều khu bảo tồn còn quá nhỏ, manh mún, rải rác, không đủ rộng để duy trì một số loài động vật, nhất là thú lớn như tê giác, voi, hổ, bò xám, bò tót, bò rừng v.v.
· Các cố gắng đã tập trung vào bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ các rừng đặc dụng song chưa quan tâm đến bảo tồn đa dạng di truyền của từng loài cụ thể. Hiện nay chưa có nhiều phòng thí nghiệm nghiên cứu về biến dị di truyền (isoenzyme và DNA markers) và chưa có nhiều nghiên cứu về biến dị di truyền làm cơ sở cho công tác bảo tồn đa dạng di truyền ở cây rừng.
· Tập trung vào trồng rừng thuần loại với cây năng suất cao (đối với rừng sản xuất) mà chưa chú trọng đến sự đa dạng loài trong rừng trồng, chưa có điều kiện nghiên cứu đầy đủ nhiều loài cây bản địa có tiềm năng vào trồng rừng. Cơ cấu cây trồng và kỹ thuật trồng các loài bản địa ở rừng đặc dụng và rừng phòng hộ còn chưa được phổ biến rộng rãi.
· Đầu tư cho nghiên cứu bảo tồn nguồn gen còn chưa đủ mạnh, đặc biệt là các nghiên cứu cơ bản để đánh giá tài nguyên di truyền cũng như để lựa chọn đúng các nguồn gen quý cần bảo tồn.
· Quản lý rừng đặc dụng vẫn còn gặp nhiều khó khăn cả về tổ chức (mới chỉ có trên dưới 50% các khu rừng cấm là đã có ban quản lý) và bảo vệ (dân vẫn phá ở nhiều nơi), kinh phí đầu tư thấp, thiếu cán bộ, thiếu quy hoạch.
· Nguyên tắc quản lý rừng đặc dụng và rừng phòng hộ là sử dụng tổng hợp tài nguyên. Chưa có nhiều nghiên cứu liên quan đến khai thác sử dụng hợp lý vốn rừng trong khi vẫn duy trì chức năng bảo vệ và bảo tồn đa dạng sinh học cũng như đa dạng di truyền.
· Chưa quan tâm sâu và đầu tư nhiều đến bảo tồn chuyển chỗ (ex situ) cho các loài cây ưu tiên, cây có tiềm năng trồng rừng.
Trên cơ sở các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan đến bảo tồn nguồn gen cây rừng và bảo vệ đa dạng sinh học, có thể đưa ra một số nhận xét như sau:
· Hệ thống luật pháp bao gồm nhiều văn bản song vẫn thiếu, chồng chéo và kém hiệu lực. Ngay từ năm 1960, Chính phủ đã ban hành chỉ thị cấm bắn voi, nhưng cho tới nay voi vẫn liên tục bị săn bắn và số lượng suy giảm nghiêm trọng từ khoảng 2000 con năm 1990 nay chỉ còn trên dưới 110 con trên cả nước, tức là đã giảm 20 lần. Gấu chó và gấu ngựa đã có tên trong Nghị định 18/HĐBT cấm hoặc hạn chế săn bắn, thế mà hiện nay việc nuôi nhốt gấu tại gia đình để lấy mật đã trở thành phổ biến khắp toàn quốc. Riêng thành phố Hà Nội, đợt kiểm kê đầu năm 2000 cho thấy số lượng gấu nuôi nhốt đã lên tới gần 700 con (Báo Hà Nội mới, tháng 4 năm 2000). Ngày 03-02-2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định 03-2000/NĐ-CP, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, trong đó tại điều 3, khoản K, mục 1 công bố : nuôi nhốt động vật hoang dã là ngành nghề cấm kinh doanh. Việt Namcũng đã ký Công ước quốc tế CITES về bảo vệ các loài động vật hoang dã, trong đó có các loài gấu. Cho tới nay các cơ quan chức năng vẫn chưa có biện pháp xử lý thoả đáng, phù hợp với pháp luật Việt Namvà Công ước quốc tế.
· Trong 3 năm thực hiện Chỉ thị 287/TTg, các địa phương đã phát hiện và xử lý 125.880 vụ vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng, trong đó khởi tố 915 vụ vi phạm nghiêm trọng. Đã tịch thu 126.441 m3 khối gỗ tròn các loại trong đó có 11.500 m3 gỗ quý hiếm, hơn 102 tấn động vật hoang dã. Song các vụ vi phạm vẫn tiếp tục tăng và việc chống người thi hành công vụ (cán bộ kiểm lâm) lại ngày một nghiêm trọng và xảy ra trên phạm vi rộng.
· Những loài động vật hoang dã thường dễ phát hiện và xử lý, còn các loài thực vật hoang dại lại khó khăn hơn nhiều. Đó là các loài thực vật quý hiếm, có giá trị cao, dễ khai thác, dễ vận chuyển và xuất khẩu như các loài cây làm thuốc, các loài phong lan quý, các loài cây cảnh hiếm v.v. Mặc dù được pháp luật bảo vệ, song điều đó chỉ tồn tại trên danh nghĩa, trong khi chúng vẫn bị khai thác tràn lan không có cách gì kiểm soát nổi. Vào đầu những năm 1990, hàng tấn hạt giống quế nổi tiếng của các vùng quế Thanh Hoá và Yên Bái đã ầm ĩ xuất lậu qua biên giới mà không hề bị các cơ quan hữu trách ngăn cản, xử lý. Những nguồn gen quý của đất nước đã không cánh mà bay để làm giàu cho các quốc gia khác có nền kinh tế phát triển hơn.
· Các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên có mục tiêu bảo tồn nguồn gen các loài thực vật quý hiếm cho tương lai, song việc bảo tồn còn nhiều bất cập, đó là :
– Bảo tồn là phục vụ phát triển, song một số vườn và khu bảo tồn chỉ quan tâm đến bảo vệ mà quên đi trách nhiệm phát triển nguồn gen ra ngoài vùng phân bố, do vậy một số nhà chức trách cố tìm cách cấm đoán, lảng tránh, gây khó dễ cho các cố gắng sưu tập, phát triển nguồn gen của các nhà nghiên cứu và đồng nghiệp như thu thập mẫu vật, hạt giống, hom cành cho xây dựng các khu bảo tồn và trồng rừng diện hẹp (rừng giống), trong khi đó họ lại không đủ sức quản lý các đối tượng đi thu thập mẫu vật nhằm kiếm lời.
– Các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên hiện đang là nơi lý tưởng cho các hoạt động thu thập nguồn gen bất hợp pháp. Một mặt do khó quản lý hoặc trình độ quản lý kém, mặt khác do hiệu lực của pháp luật thấp nên yếu tố răn đe kém, kết quả hạn chế.
– Mật độ dân cư sống quanh các khu bảo tồn là cao và có mức sống thấp, có nơi dân định cư sinh sống ngay trong vùng lõi của khu bảo tồn, trong khi đó lực lượng bảo vệ lại rất mỏng và thiếu các phương tiện cần thiết. Do vậy muốn thực thi pháp luật tốt cần phải gắn với phát triển kinh tế xã hội cho người dân địa phương.
· Nghị định 18/HĐBT đã ban hành các đây 8 năm, do vậy danh mục loài phải được liên tục bổ sung, sửa chữa cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Trong thời gian qua đã có rất nhiều thay đổi, nhiều loài đã trở nên hiếm hơn nên cần được bổ sung vào danh mục, trong khi một số loài khác lại có khả năng tồn tại tốt hơn nên cần được đưa ra khỏi danh sách. Nghị định có thể giữ nguyên song danh mục loài cần phải được thay đổi ít nhất 5 năm một lần.
· Thiếu định nghĩa chính xác về nguồn gen (tài nguyên di truyền) trong các văn bản pháp lý nên nhiều văn bản chỉ nêu chung chung mà không có biện pháp bảo tồn cụ thể, nhiều khi người ta cho bảo tồn thiên nhiên là bảo tồn nguồn gen, hoặc cứ thực hiện bảo tồn thiên nhiên là làm xong nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen.
· Thuật ngữ rừng cấm (Protected Forests) hoặc rừng đặc dụng (Special use Forests) ngày nay chưa nói lên đầy đủ chức năng bảo tồn nên dễ làm cho người quản lý hiểu lầm rằng ở đây chỉ có bảo vệ, cấm mọi hoạt động khác và không hề có khái niệm khai thác sử dụng hợp lý. Trong thực tế khái niệm bảo tồn được định nghĩa là bảo vệ và sử dụng hợp lý. Nếu chỉ quan tâm đến bảo vệ một chiều và cấm thì không thể tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân địa phương và cũng không thể đưa công tác bảo tồn nguồn gen trở thành hiện thực rộng rãi.
· Trong các văn bản pháp lý, còn thiếu các quy định về kinh phí cho bảo tồn nguồn gen bao gồm điều tra, khảo sát, đánh giá, xây dựng các quần thụ bảo tồn ex situ vì vậy các đơn vị không có cơ sở để xin cấp vốn cho các công việc quan trọng này.
· Quy chế Quản lý rừng đặc dụng do Bộ Lâm nghiệp ban hành năm 1986 chỉ có hiệu lực ở cấp ngành và cấp tỉnh nên hiệu lực còn thấp trên phạm vi quốc gia. Việc quản lý nguồn gen động thực vật rừng nói chung trong các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên còn chưa phân cấp rõ hoặc còn chồng chéo giữa Bộ NN – PTNT và các tỉnh cũng như giữa Bộ NN – PTNT với Bộ Khoa học – Công nghệ – Môi trường; trong khi quản lý nguồn gen cây thuốc trong rừng lại không biết do ai quản lý, khai thác, sử dụng: Bộ NN – PTNT hay Bộ Y tế ? Nhiều nguồn gen còn bị coi nhẹ, bị bỏ rơi hoặc không có ai quan tâm. Đối với cây thuốc chẳng hạn, một số cơ quan chức năng chỉ quan tâm đến khai thác lấy sản phẩm làm dược liệu mà không muốn quan tâm đến bảo tồn và đầu tư cho bảo tồn. Cục Môi trường của Bộ KH – CN – MT hợp tác với các Bộ ngành khác như thế nào để thực thi quản lý thiên nhiên và nguồn gen cho hợp lý ? Đội ngũ kiểm lâm mới chỉ quan tâm đến một số ít cây gỗ và động vật hoang dại và còn bỏ sót hầu hết các loại cây và con khác.
· Quyết định 242/TTg chỉ quan tâm đến các loài động vật và chưa quan tâm cụ thể đến các loài thực vật hoang dại, các nguồn gen thực vật quý hiếm.
· Quyết định 08/2001/QĐ/TTg có quy định việc nghiên cứu, giảng dạy trong các rừng đặc dụng phải được Ban quản lý khu rừng cho phép và tuân theo sự hướng dẫn kiểm tra của Ban quản lý, phải trả tiền thuê hiện trường và các dịch vụ cần thiết khác cho Ban quản lý; phải gửi báo cáo hay kết quả nghiên cứu đã được nghiệm thu cho Ban quản lý. Có thể thấy khá rõ là quy định cho nhà nghiên cứu thì rất chặt chẽ và quá nhiều ràng buộc, song không hề thấy có quy định gì về trách nhiệm nghiên cứu nguồn gen cho Ban quản lý, bản quyền trong nghiên cứu và lợi ích của nhà nghiên cứu v.v. Hầu như không có văn bản pháp luật nào nói đến lợi ích và quyền lợi của người dân địa phương mà chỉ nói đến trách nhiệm và những điều cấm kỵ, những điều không được làm, không được hưởng mà thôi.
· Chưa hề có quy chế cụ thể cho trao đổi nguồn gen với nước ngoài, đặc biệt là quy định các nguồn gen được hoặc không được hoặc hạn chế trao đổi; các nguyên tắc cơ bản trong trao đổi, giới hạn bản quyền cũng như việc phân chia lợi ích.
III. Khuyến nghị
· Chính phủ cần sớm ban hành một Pháp lệnh về quản lý, bảo tồn, sử dụng và trao đổi nguồn gen ở nước ta trong đó có quy định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền lợi của từng Bộ, ngành và chính quyền địa phương cũng như của người dân địa phương. Phải có các quy chế về quyền hạn của từng Bộ, ngành và từng cấp về trao đổi nguồn gen cũng như trách nhiệm của từng ngành và cơ quan về nguồn gen trong phạm vi mình quản lý. Phải coi nguồn gen – tài nguyên di truyền động thực vật rừng là tài nguyên quốc gia cần được bảo tồn và sử dụng lâu bền cho hiện tại và cho các thế hệ tương lai. Việc tiếp cận với các nguồn gen phải thực sự công bằng, ít gây tác động xấu cho môi trường và cho chính nguồn gen đó. Cần có phân biệt đối với các nguồn gen cây trồng nông nghiệp và các nguồn gen cây rừng vì các đối tượng này khác nhau rất nhiều.
· Nâng cao hiệu lực, tính nghiêm minh và công bằng của các văn bản pháp luật liên quan đến bảo tồn, sử dụng và trao đổi nguồn gen. Xử lý nghiêm các hoạt động phá hoại nguồn gen song không được coi Ban quản lý là chủ duy nhất của nguồn gen còn người dân cũng như các nhà nghiên cứu là người ngoại đạo. Ban quản lý và các cơ quan chức năng và thương mại hoá không được cản trở việc sử dụng truyền thống các nguồn gen mà phải tạo điều kiện để phát triển tiếp tục nguồn gen đó trong nhân dân.
· Cần phải có quy chế về quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn gen động thực vật hoang dã cũng như các chính sách gây nuôi, phát triển để kinh doanh, xuất khẩu chúng như đối với các loài cá sấu, trăn, phong lan, cây dược liệu, cây cảnh khác.
· Ban hành các quy định cụ thể về quản lý, quy hoạch phát triển và sử dụng hợp lý các khu rừng đặc dụng cũng như các nguồn gen nằm trong lòng chúng, trong đó đặc biệt lưu ý đến quyền lợi của người dân địa phương và yêu cầu của nghiên cứu khoa học.
· Cần có quy định về việc đánh giá giá trị kinh tế của các nguồn gen để làm cơ sở cho bảo tồn, trong đó quy định rõ các tiêu chí, phương pháp tiếp cận và vai trò của nghiên cứu cũng như cơ chế đầu tư cho nghiên cứu về lĩnh vực này.
· Cần có các quy định cụ thể về kinh phí và cơ chế cấp vốn giành riêng cho bảo tồn nguồn gen bên cạnh nguồn kinh phí chung cho bảo tồn thiên nhiên. Nên thành lập các quỹ giành cho bảo tồn nguồn gen nhằm tài trợ cho các nghiên cứu và các cố gắng bảo tồn nguồn gen.
· Cần có quy chế về trao đổi nguồn gen với nước ngoài trong đó quy định rõ các nguồn gen đươc trao đổi, không được trao đổi hoặc hạn chế trao đổi; trách nhiệm và lợi ích của các bên; những ràng buộc mang tính nguyên tắc như không được cung cấp cho bên thứ ba; bản quyền và chia lợi ích khi nguồn gen được đưa vào kinh doanh lớn v.v.
· Trong các văn bản pháp lý cần nêu đầy đủ các chức năng cơ bản của các rừng đặc dụng (VQG, khu bảo tồn thiên nhiên) trong đó nhấn mạnh chức năng bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen.
· Cần có một cơ quan quốc gia chính thức được giao nhiệm vụ thu thập, lưu trữ, trao đổi thông tin liên quan đến bảo tồn nguồn gen (từ điều tra, đánh giá, nghiên cứu đến bảo tồn) trong cả nước.
· Cần thành lập một mạng lưới bảo tồn nguồn gen theo từng chuyên đề hay loài/nhóm loài hay vùng sinh thái để khâu nối, điều phối các công việc có liên quan đến bảo tồn trong nước và quốc tế.
· Trong các bộ luật mới hoặc sửa đổi (Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Bảo vệ thiên nhiên v.v.), cần ban hành một hệ thống mới các khu bảo tồn thiên nhiên trong đó có thêm nhiều khu bảo tồn phục vụ mục tiêu bảo tồn nguồn gen, nghĩa là bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ còn có mục tiêu khai thác sử dụng bền vững nguồn gen. Hiện nay các khu bảo tồn loài vẫn được xử lý giống như mọi khu bảo tồn khác. Nhiều loại khu bảo tồn khác của quốc tế cũng được khai thác sử dụng chứ hoàn toàn không chỉ có bảo vệ nghiêm ngặt.
Tài liệu tham khảo.
1. Bộ Lâm nghiệp, 1991. Ba mươi năm xây dựng và phát triển ngành Lâm nghiệp, 1961-1990. Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội, 1991. 222 trang.
2. Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam(Chính phủ Việt Namvà Dự án của Quỹ Môi trường toàn cầu), 1995. Hà Nội, 208 trang.
3. Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1999. Bảo tồn đa dạng sinh học. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, 148 trang.
Real situation of and mechanisms, policies related to the managment, exploitation and use of gene sources of forest tree species
Summary:Beginning the paper the author mentions the richness and diversity of the forest flora in Viet Namand the efforts made by the governnment of Viet Namin the conservation of the gene sources of forest tree and plant species from 1960 now. Next, the author mentions some important problems that have not been paid attention to in various activities as well as in mechanisms and policies of the state at the same time analyzing the inadequacies in the current official documents relating to this field. Based on this the authors makes some recommendations to the government such as the need to promulgate laws, regulations on management, conservation, exploitation and rational use of gene sources of the wildlife, wild plant and tree species.*********************************************************
Tin mới nhất
- Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp
- Ảnh hưởng của mật độ và phân bón đến năng suất rừng trồng Keo lai 9,5 năm tuổi ở Quảng Trị
- Nghiên cứu đặc điểm đất đai tại khu vực loài Trúc đen (Phyllostachys nigra Munro) phân bố tại Sa Pa, Lào Cai
- Phân tích chỉ số đa dạng sinh học của thực vật thân gỗ trong Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà - Tp. Đà Nẵng
- Nghiên cứu đa dạng di truyền cây Dầu rái (Dipterocarpus alatus Roxb.) bằng kỹ thuật RAPD
Các tin khác
- Triển vọng phục hồi hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới, họ Sao dầu ở Việt Nam*
- Về quyền sử dụng đất làm nương rẫy của đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi
- Kết quả Nghiên cứu xây dựng mô hình canh tác rẫy theo hướng sử dụng đất bền vững ở Tây Bắc
- Canh tác nương rẫy và vấn đề tham gia quản lý bảo vệ rừng tự nhiên của đồng bào Bahnar ở huyện K’bang, tỉnh Gia Lai (1)
- Canh tác nương rẫy của một số dân tộc thiểu số ở tây nguyên và các chính sách, giải pháp sử dụng hợp lý đất rừng