MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÂM NGHIỆP CỘNG ĐỒNG BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG Ở VIỆT NAM
Nguyễn Hồng Quân — Phạm Xuân Phương
Lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam – Tiềm năng, cơ hội và thách thức
Việt Nam với 2/3 diện tích là vùng đồi núi, đây là nơi sinh sống của hơn 24 triệu đồng bào thuộc 54 dân tộc, đặc biệt là cộng đồng các dân tộc ít người mà cuộc sống của họ luôn gắn bó mật thiết với đất đai, rừng núi, đây cũng là nơi hoạt động chủ yếu của ngành lâm nghiệp, vì vậy, việc xã hội hoá ngành lâm nghiệp không chỉ là một yêu cầu thực tế khách quan của Việt Nam mà nó còn phù hợp với xu thế phát triển nghề rừng trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Quá trình chuyển hướng mang tính chiến lược của ngành lâm nghiệp từ lâm nghiệp thuần tuý nhà nước sang lâm nghiệp nhân dân – lâm nghiệp xã hội (xã hội hoá ngành lâm nghiệp) được thực hiện từ hơn 15 năm trở lại đây, đã tạo ra nhiều nhân tố tích cực mới, đa dạng hoá các hình thức quản lý và phương thức tiếp cận mới đối với quản lý tài nguyên rừng. Qua đó, ngoài lâm nghiệp quốc doanh còn phát huy được vai trò của các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là cộng đồng và hộ gia đình tham gia quản lý bảo vệ và phát triển vốn rừng.
Tuy nhiên trong quá trình chuyển hướng này, lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) mới chỉ dừng ở bước thí điểm và chưa được pháp lý công nhận, cho đến ngày 3 tháng 12 năm 2004, Luật bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội chính thức thông qua, mới công nhận cộng đồng là một chủ thể được giao rừng với các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể tại các điều 29 và 30. Đây là một chủ trương đúng đắn, tăng cường xã hội hoá nghề rừng, tạo thêm sức mạnh cho việc quản lý và phát triển vốn rừng, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi, bảo đảm an ninh chính trị và quốc phòng.
Để đạt được kết quả trên, thời gian qua, ngành và các dự án quốc tế đã tiến hành rất nhiều công trình nghiên cứu, xây dựng nhiều mô hình thí điểm, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, thông tin quảng bá về lâm nghiệp cộng đồng. Tuy nhiên, nay luật đã ra đời, để lâm nghiệp cộng đồng phát triển có hiệu quả, đóng góp nhiều cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng thì những nghiên cứu trước đây, những thông tin của các hội thảo trước đây là chưa đủ. Nhiều vấn đề cần được đánh giá, xem xét, thống nhất lại, từ khái niệm đến đánh giá hiện trạng, những ưu điểm, những tồn tại, cơ hội, thách thức và điều đặc biệt từ đó đề xuất được những công việc cần tiến hành. Đây cũng chính là mục đích của bài viết này, giúp các nhà quản lý xác định được những nội dung, phương hướng cần tiến hành trong giai đoạn tiếp theo.
Khái niệm về cộng đồng.
Cộng đồng là một tập hợp những người sống gắn bó với nhau thành một xã hội nhỏ có những điểm tương đồng về mặt văn hoá, kinh tế, xã hội truyền thống, phong tục tập quán, có các quan hệ trong sản xuất và đời sống gắn bó với nhau và thường có ranh giới không gian trong một thôn, bản. Theo quan niệm này, “cộng đồng” chính là “cộng đồng dân cư thôn bản” (hiện có khoảng 50.000 thôn bản thuộc 9.000 xã). Tuy nhiên, trong phạm vi hẹp hơn còn bao gồm cả cộng đồng sắc tộc, cộng đồng các dòng họ, cộng đồng tôn giáo hoặc các nhóm hộ trong thôn bản.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau về cộng đồng, nhưng phần lớn các ý kiến đều cho rằng “cộng đồng” được dùng trong quản lý rừng chính là nói đến cộng đồng dân cư thôn bản. Tại Điều 3Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã định nghĩa “Cộng đồng dân cư thôn là toàn bộ các hộ gia đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc hoặc đơn vị tương đương“. Cộng đồng được dùng trong báo cáo này chủ yếu là nói về cộng đồng thôn bản.
Khái niệm về cộng đồng tham gia quản lý rừng.
Cộng đồng tham gia quản lý rừng cũng có thể thay thế bằng một từ chung nhất là lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ).
Theo FAO, LNCĐ là thuật ngữ bao trùm diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn người dân với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích các sản phẩm này.
Hiện nay, ở Việt Nam có những quan điểm khác nhau về LNCĐ và chưa có một định nghĩa chính thức nào được công nhận. Tuy nhiên, qua các cuộc hội thảo dường như mọi người đều thống nhất ở Việt Nam, có hai hình thức quản lý rừng cộng đồng phù hợp với định nghĩa của FAO như sau:
– Thứ nhất là quản lý rừng cộng đồng (QLRCĐ):
Đây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng tham gia quản lý và ăn chia sản phẩm hoặc hưởng lợi từ những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của cộng đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng.
Rừng của cộng đồng là rừng của làng bản đã được quản lý theo truyền thống lâu đời (rừng thiêng, rừng ma, rừng mó nước…quản lý theo các luật tục truyền thống với tinh thần tự nguyện cao); rừng trồng của các hợp tác xã, rừng tự nhiên đuợc giao cho các hợp tác xã trước đây, nay hợp tác xã giao lại cho các xã, hoặc các thôn quản lý; rừng được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng với tính chất thí điểm trong thời gian gần đây.
– Thứ hai là quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
Đây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng không thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu chung của họ mà thuộc quyền quản lý, sử dụng sở hữu của các thành phần kinh tế khác nhưng có quan hệ trực tiếp đến đời sống, đến việc làm, thu hoạch sản phẩm, thu nhập hay các lợi ích khác của cộng đồng (thuỷ lợi nhỏ, nước sinh hoạt…). Hình thức này bao gồm hai đối tượng:
+ Rừng của hộ gia đình, cá nhân là thành viên trong cộng đồng. Cộng đồng tham gia quản lý với tính chất hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, chia xẻ lợi ích cùng nhau trên cơ sở tự nguyện (tạo thêm sức mạnh để báo vệ rừng, hỗ trợ hoặc đổi công cho nhau trong các hoạt động lâm nghiệp…).
+ Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ chức nhà nước (các ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng, các lâm trường, công ty lâm nghiệp nhà nước, các trạm trại…) và các tổ chức tư nhân khác. Cộng đồng tham gia các hoạt động lâm nghiệp như bảo vệ, khoanh nuôI xúc tiến tái sinh, phục hồi rừng, trồng rừng với tư cách là người làm thuê thông qua các hợp đồng khoán và hưởng lợi theo các cam kết trong hợp đồng.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, LNCĐ, QLRCĐ là những khái niệm khác nhau. Thuật ngữ QLRCĐ được sử dụng với ý nghĩa hẹp hơn để chỉ CĐ quản lý những khu rừng của một cộng đồng dân cư, còn nói đến LNCĐ hay cộng đồng tham gia quản lý rừng chính là diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn người dân trong cộng đồng dân cư thôn bản với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích từ rừng. Hay nói cách khác, LNCĐ là một hình thức quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng do cộng đồng dân cư thôn bản thực hiện bao gồm cả rừng của cộng đồng và rừng của các thành phần kinh tế khác.
Với cách hiểu như vậy, nên chấp nhận LNCĐ bao gồm cả quản lý rừng cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của cộng đồng) và quản lý rừng dựa vào cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của các chủ rừng khác). Khái niệm này vừa phù hợp với định nghĩa của FAO vừa phát huy được nhiều hơn sự đóng góp của cộng đồng vào quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng.
Đặc trưng và tiêu chí LNCĐ.
Tiêu chí về LNCĐ được xây dựng dựa trên cơ cơ sở khái niệm về LNCĐ. Do có những quan niệm khác nhau về LNCĐ nên có những ý kiến khác nhau về tiêu chí của LNCĐ, tuy nhiên có thể khái quát một số tiêu chí chính sau đây:
a- Quyền sử dụng đất và quyền sử dụng rừng thuộc về cộng đồng.
Đây là một trong những tiêu chí quan trọng nhất xác lập rừng cộng đồng. Quyền sử dụng đất và quyền sử dụng rừng thuộc về cộng đồng, điều đó có nghĩa “cộng đồng” là chủ rừng, được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng ổn định, lâu dài phục vụ cho lợi ích của CĐ.
b- Rừng cộng đồng chủ yếu đáp ứng các yêu cầu của cộng đồng cả về sản phẩm, môi trường sinh thái và xã hội
+ Nhu cầu thiết yếu như gỗ, củi và lâm đặc sản, chăn thả gia súc
+ Nhu cầu sử dụng một số khu rừng vì lợi ích chung như rừng bảo vệ nguồn nước, rừng gỗ quý, rừng thiêng, rừng ma gắn liền với phong tục tập quán, tín ngưỡng của các đồng bào dân tộc.
+ Tuỳ theo điều kiện, rừng cộng đồng có thể sản xuất ra hàng hoá để đổi lấy các nhu yếu phẩm khác phục vụ đời sống của các thành viên trong cộng đồng.
c- Quản lý rừng cộng đồng được thực hiện chủ yếu thông qua sử dụng các nguồn lực sẵn có của cộng đồng, kết hợp với sự hỗ trợ của nhà nước
Đây là tiêu chí để phân biệt rừng cộng đồng với rừng của các tổ chức kinh tế khác. Cộng đồng không có nguồn tài chính thu từ rừng để trả công lao động. Tuy nhiên, cộng đồng dân cư làng bản có nguồn lao động dồi dào, có những kiến thức bản địa về lâm sinh, nông lâm kết hợp và quản lý rừng. Đây là thế mạnh nếu biết phát huy sẽ tạo ra nguồn lực để bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng. Mặt khác, Chính phủ có nhiều chính sách hỗ trợ để tăng cường sự tham gia của người dân vào quản lý rừng.
d. Quản lý rừng cộng đồng bằng những quy ước/hương ước được xây dựng với sự tham gia của toàn thể cộng đồng và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận
Làng bản muốn quản lý được rừng của mình phải dựa vào pháp luật của nhà nước, vào nhu cầu của cộng đồng, trình độ dân trí để soạn thảo và ban hành quy ước/hương ước quản lý và bảo vệ rừng. Nội dung quy ước/hương ước quy định quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên cộng đồng trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng để nhận biết địa phương đó đã có rừng cộng đồng hay chưa.
e. Các hình thức tổ chức quản lý rừng cộng đồng tương đối linh hoạt, mềm dẻo để thu hút sự tham gia của các thành viên trong cộng đồng
Vì sự tham gia của các thành viên trong cộng đồng mang tính chất tự nguyện, nên đòi hỏi phải có những hình thức tổ chức và quản lý đa dạng, linh hoạt và mềm dẻo. Có thể áp dụng các hình thức tổ chức như: thành lập tổ chuyên trách bảo vệ rừng (huy động các hộ gia đình hay huy động các tổ chức đoàn thể trong cộng đồng tham gia bảo vệ rừng), các nhóm sở thích. Nếu hình thức tổ chức cứng nhắc, như tổ chức theo kiểu làm công, thuê khoán thì đó không phải là kiểu tổ chức quản lý rừng cộng đồng.
Bảng 1. Khái quát các tiêu chí nhận biết về LNCĐ
Các tiêu chí |
Các chỉ số nhận biết |
1.- Quyền sử dụng đất và quyền sử dụng rừng thuộc về cộng đồng |
– Được nhà nước giao đất, giao rừng sử dụng rừng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp – Được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng (hợp pháp hoá diện tích rừng cộng đồng đã quản lý theo truyền thống từ nhiều năm trước, rừng do HTX bàn giao lại cho cộng đồng quản lý) |
2. Mục đích của rừng cộng đồng |
– Cung cấp gỗ gia dụng của cộng đồng dân cư làng bản (gỗ và lâm sản để làm nhà mới, sửa chữa lớn nhà cửa, củi, măng, chăn thả gia súc..) – Cung cấp gỗ và lâm sản phục vụ chung cho cộng đồng thôn bản. – Bảo vệ nguồn nước, chống xói mòn đất — Bảo vệ rừng gỗ quý, rừng thiêng, rừng ma |
3. Sử dụng các nguồn lực để quản lý rừng cộng đồng |
– Chủ yếu sử dụng các nguồn lực sẵn có của cộng đồng, – Có sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức chính phủ và phi chính phủ |
4. Quy ước/hương ước quản lý rừng |
– Quy ước/hương ước được xây dựng với sự tham gia của toàn thể cộng đồng và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận. |
5. Hình thức tổ chức quản lý rừng cộng đồng |
– Hình thức tổ chức và quản lý rừng linh hoạt ( thành lập tổ chuyên trách bảo vệ rừng, các hộ gia đình trong cộng đồng luân phiên tuần tra rừng, huy động các tổ chức đoàn thể cấp cộng đồng tham gia bảo vệ rừng..vv). |
Tính ưu việt của LNCĐ.
Cộng đồng tham gia quản lý rừng có tính ưu việt sau:
– Cộng đồng đân tộc thiểu số sống gắn bó với rừng, rừng là nơi cung cấp đất canh tác, cung cấp gỗ củi, lâm sản phụ, lương thực, thực phẩm, dược liệu…vì vậy nếu phát huy tốt vai trò của họ thì sẽ tạo thêm sức mạnh đối với quản lý bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng, phục vụ trước hết cho lợi ích của cộng đồng, đồng thời góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, xã hội miền núi, thực hiện các các chương trình quan trọng của nhà nước (Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, xoá đói giảm nghèo…), bảo đảm phòng hộ môi trưòng, an ninh chính trị, quốc phòng…
– QLRCD phù hợp với tập quán truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, có tính cộng đồng cao, có nhiều kiến thức bản địa tốt, đặc biệt cộng đồng có mặt hầu khắp mọi nơi, mọi lúc trong vùng núi, đây là một lợi thế mà các thành phần kinh tế khác không có. Lợi thế này giúp cho việc quản lý bảo vệ rừng được thuận lợi hơn.
– Quản lý rừng có hiệu quả, ít tốn kém thông qua trách nhiệm và sự cam kết tự nguyện của người dân trước cộng đồng.
– Bảo đảm nhu cầu tối thiểu về lâm sản của người dân mà nhà nước không phải đầu tư quản lý, bảo vệ.
– Bảo đảm tính công bằng trong chia xẻ lợi ích, từ đó bảo đảm sự đoàn kết trong cộng đồng và giữa các cộng đồng, góp phần ổn định xã hội.
Thực trạng cộng đồng tham gia quản lý rừng.
a- Về quy mô diện tích.
Theo kết quả kiểm kê rừng dến 31/12/2003 thì rừng đã giao cho hộ gia đình và tập thể là 2.616.931ha/tổng số 12.094.518 ha rừng toàn quốc tương ứng 21,3%, trong đó rừng tự nhiên 1.758.892ha/tổng số 10.004.709 ha (tương ứng 17,6%), rừng trồng 858.039ha/tổng số 2.089.809 ha (tưong ứng 41%).
Theo số liệu của Cục Kiểm lâm tính đến tháng 6/2001, các cộng đồng dân cư thuộc 1.203 xã, 146 huyện của 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang tham gia quản lý 2.348.295 ha rừng và đất chưa có rừng, chiếm khoảng 15,5% diện tích đất lâm nghiệp (đất có rừng và đất rừng) trong toàn quốc.
b- Về nguồn gốc hình thành.
Có thể phân thành 3 loại sau đây:
– Rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý theo truyền thống từ nhiều đời nay
+ Đây là các loại rừng quản lý theo truyền thống của các đồng bào dân tộc thiểu số. Về mặt pháp lý, các quyền sở hữu, quyền sử dụng các khu rừng này chưa được xác lập, nhưng trên thực tế nó đang được điều tiết một cách không chính thức bởi các luật tục truyền thống. Trong xã hội cổ truyền của một số đồng bào dân tộc ít người, làng bản là đơn vị độc lập cao nhất. Mỗi làng đều có ranh giới lãnh điạ nhất định bao gồm cả đất, rừng, nguồn nước, suối…Toàn bộ các hoạt động quản lý tài nguyên của cộng đồng được thực hiện bởi già làng, trưởng bản thông qua các luật tục hay hương ước được thực hiện một cách tự nguyện truyền từ đời này qua đời khác.
+ Tính đến tháng 6/2001, tổng diện tích rừng và đất rừng thuộc loại này là 214.006 ha, bao gồm: 86.701 ha đất có rừng; 127.304 ha đất trống đồi núi trọc. Đó là những khu rừng thiêng, rừng ma, rừng đình, rừng thổ công, rừng mó nước, rừng phòng hộ xóm làng (chống sạt lở, đá lăn…), những khu rừng cung cấp lâm sản truyền thống cho cộng đồng (săn bắn, thu hái thực phẩm, cây thuốc…), bãi chăn thả. Ngoài ra, thuộc loại này, còn bao gồm rừng trồng của Hợp tác xã, rừng tự nhiên đã giao cho Hợp tác xã trước đây, nay giao lại cho các xã hoặc thôn bản quản lý.
Hình thức này phổ biến ở cộng đồng người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, nơi tính cộng đồng, hương ước làng bản còn được duy trì.
Xét về khía cạnh pháp lý: Tại Điều 9, Nghị định 17/HĐBT ngày 17/1/92 của Hội đồng Bộ trưởng và tại điều 29 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã thừa nhận cộng đồng thôn bản là chủ rừng đối với diện tích rừng làng, rừng bản nói trên. Nhưng trên thực tế, chính quyền địa phương chưa làm thủ tục giao quyền sử dụng lâu dài cho các cộng đồng.
– Rừng và đất rừng chính quyền địa phương giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định lâu dài.
+ Tổng diện tích là 1.197.961 ha, bao gồm: đất có rừng 669.750 ha, đất trống đồi núi trọc 528.211 ha. Thời gian qua, mặc dù pháp luật chưa quy định cộng đồng là đối tượng giao quyền sử dụng đất, nhưng đã có 18 tỉnh mạnh dạn làm thí điểm giao đất, giao rừng cho cộng đồng.
+ Rừng giao cho cộng đồng phần lớn là rừng nghèo, phục hồi sau nương rẫy hoặc sau khai thác kiệt. Một số cộng đồng được giao đất trống đồi trọc để trồng rừng hoặc khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, hiếm có trường hợp cộng đồng được giao những diện tích rừng giàu để quản lý, bảo vệ và sử dụng ổn định lâu dài.
+ Đối với diện tích đất và rừng giao cho cộng đồng: các thành viên của cộng đồng cùng đầu tư, quản lý và hưởng lợi, hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi giữa các thành viên của cộng đồng. Cộng đồng tự thành lập tổ, nhóm để tiến hành các hoạt động lâm nghiệp nhằm giải quyết các lợi ích cho các thành viên trong cộng đồng. Nhiều nơi, đất lâm nghiệp giao cho cộng đồng thuộc các khu vực dự án như Chương trình 327, Dự án 661 và các dự án quốc tế (Thụy Điển, Đan Mạch, Công Hoà Liên bang Đức, WB).
Tuy nhiên cho đến nay, cộng đồng mới chỉ được nhận quyết định giao đất, giao rừng mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ngoài nguồn đầu tư và hỗ trợ từ các chương trình, dự án thì các quyền cơ bản của chủ rừng theo quy định của pháp luật, cộng đồng vẫn không được hưởng
– Rừng và đất rừng cộng đồng nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng mới rừng của các tổ chức nhà nước
Tổng diện tích là 936.327 ha, bao gồm đất rừng phòng hộ 494.242 ha, đất rừng đặc dụng 39.289 ha; đất rừng sản xuất 402.795 ha.
Đây là hình thức cộng đồng nhận khoán theo quy định tại Nghị định 01/CP của Chính phủ, các tổ chức giao khoán cho cộng đồng chủ yếu là lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, Ban quản lý các dự án 327, 661 và các dự án khác. Cộng đồng tự tổ chức thực hiện các công việc và hưởng lợi theo hợp đồng ký kết.
c- Các hình thức cộng đồng tham gia quản lý rừng.
Có thể so sánh khái quát các hình thức cộng đồng tham gia quản lý rừng như sau:
Từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, quy mô thôn là phù hợp cho quản lý rừng cộng đồng vì:
– Thích hợp đối với vùng sâu, vùng xa.
– Phù hợp với truyền thống tập quán của nhiều nhóm dân tộc.
– Phù hợp với điều kiện sản xuất hiện nay của dân khi nền kinh tế chưa phát triển.
– Phù hợp đối với quản lý tất cả các loại rừng, kể cả rừng phòng hộ và đặc dụng.
– Phù hợp với trình độ quản lý của người dân cấp thôn bản.
Bảng 2. Khái quát các hình thức cộng đồng tham gia quản lý rừng
Hình thức |
Điểm mạnh |
Điểm yếu |
Thôn/bản |
– Có nhiều tiềm năng về các mặt: Vị trí địa lý (tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên). Kinh tế (tài chính, sản xuất). Xã hội (Truyền thống, tổ chức, quy ước nội bộ, quan hệ..) Nguồn nhân lực (lao động, lãnh đạo). Có khả năng quản lý tất cả các loại rừng. |
– Chưa có ranh giới rõ ràng. – Chưa có đủ tư cách pháp nhân – Vai trò trưởng thôn mang tính hành chính và chưa có trách nhiệm pháp lý. – Trình độ quản lý thấp. – Chưa có cơ chế tài chính, nguồn thu hạn chế – Phụ thuộc vào các cấp chính quyền cao hơn |
Nhóm hộ/nhóm sở thích |
– Quy mô nhỏ, dễ dàng tổ chức, quản lý thống nhất. – Phù hợp với trình độ hiện nay của dân. – Phù hợp với yêu cầu đầu tư của dân – Có tiềm năng trở thành cấp thôn bản hoặc HTX kiểu mới |
– Chi phí phù hợp với quy mô nhỏ. – Khó bảo vệ rừng ở các vùng sâu, vùng xa. |
Dòng tộc |
Thuận lợi tương tự như nhóm hộ |
– Khó được chấp nhận về mặt pháp lý. – Có thể tạo nên mâu thuẫn cục bộ trong cộng đồng thôn bản |
d- Hiệu quả đạt được.
Cho đến nay chưa có đánh giá hiệu quả quản lý rừng cộng đồng ở quy mô toàn quốc, tuy nhiên, căn cứ vào 3 kết quả Hội thảo quốc gia về quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội ( tháng 6/2000, tháng 11/2001 và tháng 11/2004) có thể đưa ra một số nhận định sau:
– Nhiều nơi rừng cộng đồng được bảo vệ và phát triển tốt hơn, những nơi rừng do cộng đồng quản lý hầu như không bị chặt phá, do không có xâm hại nên rừng ngày càng tăng trưởng.
– Góp phần nâng cao thu nhập của người dân, xoá đói giảm nghèo, đáp ứng nhu cầu lâm sản cho các công trình chung của cộng đồng và hộ gia đình.
Đối với diện tích rừng do cộng đồng nhận khoán bảo vệ, hàng năm được Nhà nước hoặc chủ rừng trả tiền công khoán, đã góp phần giải quyết một phần khó khăn về đời sống cho một bộ phận dân cư.
Đối với diện tích rừng và đất rừng chính quyền địa phương giao, cộng đồng có thể tận dụng khi rừng chưa khép tán hoặc đất trống chưa trồng rừng để canh tác kết hợp cây nông nghiệp, chăn thả dưới tán rừng, được các dự án đầu tư hỗ trợ vốn để sản xuất, được hưởng lợi sản phẩm từ rừng.
Đối với diện tích rừng cộng đồng quản lý theo truyền thống cho đến nay hầu như cộng đồng có toàn quyền quyết định việc sử dụng tài nguyên rừng, trong đó đáp ứng nhu cầu lâm sản cho các công trình chung của cộng đồng, giải quyết nhu cầu gỗ làm nhà cho các hộ gia đình.
– Tiết kiệm chi phí cho Nhà nước: hiện nay có nhiều cộng đồng đang quản lý rừng hầu như không có sự hỗ trợ của Nhà nước về kinh phí, nhưng rừng vẫn được bảo vệ tốt.
– Rừng cộng đồng đã góp phần bảo vệ nguồn nước, giải quyết một phần nhu cầu gỗ gia dụng cho cộng đồng và thành viên của cộng đồng; khai thác lâm sản ngoài gỗ…, góp phần phát triển ngành nghề thủ công truyền thống và tăng thu nhập cho cộng đồng.
– Góp phần khôi phục truyền thống văn hoá, phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng thông qua việc quản lý rừng cộng đồng, có sự giúp đỡ và hướng dẫn của các tổ chức nhà nước, đã góp phần thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện quy chế quản lý, bảo vệ rừng; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; khôi phục truyền thống văn hoá tốt đẹp, hương ước của cộng đồng.
đ- Tồn tại và nguyên nhân.
-Tồn tại:
Mặc dầu đạt được các kết quả trên, song trong thực tế còn một số tồn tại sau:
+ Có nơi người dân không tha thiết với nhận đất, nhận rừng
+ Người dân nhận đất nhận rừng nhưng không hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình là gì. Việc quản lý, bảo vệ, sử dụng rừng sau khi giao không có tiến bộ gì hơn trước khi giao ( chủ yếu ở Tây Nguyên).
+ Cộng đồng không đủ quyền và lực để chống lại lâm tặc vì thiếu sự trợ giúp của chính quyền, của kiểm lâm và công an.
+ Thiếu vốn nên nhiều nơi nhận đất, nhận rừng nhưng không thể đầu tư vào sử dụng đất và phát triển rừng.
+ Thiếu kiến thức về kỹ thuật lâm nghiệp để quản lý, xây dựng, phát triển và sử dụng rừng có hiệu quả.
+ Nguồn thu từ rừng chưa chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của cộng đồng, chưa thực sự đóng góp vào cải thiện đời sống của người dân.
– Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tồn tại trên là:
+ Thời gian qua, khi Luật bảo và phát triển rừng chưa ra đời, LNCĐ mới chỉ được làm thí điểm hoặc tự phát ở một số địa phương với sự trợ giúp của các dự án hoặc chính quyền địa phương. Do chưa có đầy đủ cơ sở pháp lý nên CĐ chưa được hưởng các quyền như các thành phần kinh tế khác (như các quyền được giao đất giao rừng, vay vốn tín dụng ưu đãi, chính sách hưởng lợi…) để thực hiện việc quản lý xây dựng và phát triển rừng.
+ Cộng đồng sống ở vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu vốn lại thiếu sự trợ giúp của cơ quan, đoàn thể, chính quyền địa phương, đặc biệt là công tác khuyến lâm. Nhiều nơi tiến hành giao đất giao rừng quá ồ ạt, trong khi những đ
Tin mới nhất
- Hội đồng nghiệm thu tổng kết cấp cơ sở đề tài khoa học công nghệ cấp Quốc gia: Nghiên cứu phát triển thị trường gỗ và sản phẩm gỗ nội địa phục vụ tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp Việt Nam. Mã số: ĐTĐL.XH-04/18
- Hội thảo Mở rộng hệ thống truy xuất nguồn gốc thông minh (iTwood) cho gỗ rừng trồng hộ gia đình để hỗ trợ triển khai hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp (VNTLAS)
- Hội đồng nghiệm thu tổng kết cấp cơ sở dự án: “Ứng dụng công nghệ thông tin trong truy xuất và quản lý gỗ hợp pháp đối với gỗ rừng trồng”.
- Báo cáo kết quả đề tài: Nghiên cứu hiệu quả rừng trồng một số loài cây làm cơ sở đề xuất định hướng phát triển cây trồng chủ yếu phục vụ sản xuất hàng hóa lâm sản ở Việt Nam
- Thực trạng rừng trồng sản xuất ở Việt Nam
Các tin khác
- Khảo sát, đánh giá tình hình triển khai chính sách hưởng lợi đối với hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng được giao, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp tại tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc
- Phân tích vị thế quản lý rừng thuộc quyền sử dụng của thôn/bản ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam
- Xây dựng phương pháp và tiêu chí đánh giá các mô hình quản lý rừng làng bản
- Đánh giá kết quả bước đầu về công tác giao rừng tự nhiên
- Đánh giá thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, làng, bản, ấp