Một số kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh thái, vật hậu, kỹ thuật nhân giống cây Thanh thất (Ailanthus triphysa (Dennst) Alston)

Phạm Văn Bốn

Phân viện Nghiên cứu Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ

TÓM TẮT

Kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy Thanh thất có phân bố nhiều ở khu vực Phú Yên và Bình Định. Loại đất chủ yếu ở đây là feralit phát triển trên đá Granite, tầng đất mỏng, thành phần cơ giới nhẹ, hơi chua. Thanh thất phân bố chủ yếu ở độ cao dưới 300m so với mực nước biển, chủ yếu ở các trạng thái rừng thứ sinh, khoảng trống trong rừng, ven đường, ven rừng trồng, ven nương rẫy và dọc theo các khe suối; Khả năng tái sinh tự nhiên của Thanh thất kém. Mật độ cây tái sinh ở các cấp độ tàn che của tán rừng có sự khác nhau lớn, giảm rõ rệt theo hướng tăng của cấp độ tàn che của tán rừng; Thanh thất ra hoa vào tháng 2-3, quả chín vào tháng 5-6 ở khu vực Đông Nam Bộ. Ở khu vực Nam Trung Bộ thì chậm hơn khoảng 1 tháng. Tỷ lệ cây ra hoa đạt 90%, tỷ lệ cây đậu quả 50%; Sinh trưởng rừng trồng Thanh thất ở Phú Yên và Bình Phước có sự chênh lệch lớn. Ở Phú Yên sinh trưởng rất chậm, tăng trưởng bình quân năm về đường kính chỉ đạt 0,82-1,04cm/năm và chiều cao là 0,46-0,72m/năm. Ở Bình Phước sinh trưởng khá nhanh, tăng trưởng bình quân năm về đường kính đạt 2,63cm/năm, về chiều cao là 1,65m/năm. Hạt Thanh thất rất dễ xử lý nẩy mần, có thể xử lý bằng nước lạnh hoặc nước ấm (2 sôi + 3 lạnh); Trong điều kiện môi trường thông thường hạt mất sức nảy mầm sau 2-3 tháng. Tuy nhiên, trong môi trường lạnh ở 10oC sau 12 tháng tỷ lệ nảy mầm có thể còn 70%; Ánh sáng có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây Thanh thất trong giai đoạn gieo ươm, cấp độ che bóng 25% cho kết quả tốt nhất. Hỗn hợp ruột bầu có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của cây Thanh thất trong giai đoạn gieo ươm. Hai công thức hỗn hợp ruột bầu có hiệu quả tương đương nhau, vượt trội so với công thức đối chứng và các công thức khác là: hỗn hợp (90%đất + 10% phân bò hoai) và hỗn hợp (89%đất + 10% phân bò hoai + 1% phân VSSG).

Từ khóa: Sinh thái, Vật hậu, Nhân giống, Cây Thanh thất

I. MỞ ĐẦU

Thanh thất là cây gỗ lớn, mọc nhanh, phân bố rộng ngoài tự nhiên, gỗ mềm, thớ thẳng, mịn, dễ bóc, sử dụng làm gỗ dán, bao bì, sản xuất diêm…, có khả năng thích hợp cho việc trồng rừng cung cấp gỗ lớn ở Việt Nam… Theo tác giả Phạm Đình Tam và các cộng sự thì Thanh thất là một trong những cây sẽ được thị trường thế giới ưa chuộng trong tương lai. Tuy nhiên, kỹ thuật gây trồng cây Thanh thất đến nay ở nước ta còn thiếu, mới chỉ có một số đơn vị, địa phương trồng thử nghiệm mang tính thăm dò, thiếu tính hệ thống. Để khắc phục những vấn đề trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài ” Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật gây trồngcây Thanh thất (Ailanthus triphysa. (Dennst) Alston) phục vụ kinh doanh gỗ lớn”. Đến nay đề tài đã thu được một số kết quả dưới đây.

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Nghiên cứu kỹ thuật thu hái hạt giống

Kế thừa các tài liệu đã công bố và căn cứ vào quy trình kỹ thuật xây dựng rừng giống, vườn giống (QPN 15-93) để lựa chọn cây mẹ thu hái hạt.Điều tra, theo dõi đặc điểm vật hậu để lựa chọn thời điểm và phương pháp thu hái.

2.2. Phương pháp điều tra rừng tự nhiên, rừng trồng

Đối với rừng tự nhiên: sử dụng phương pháp điều tra theo tuyến và theo ÔTC điển hình. Các tuyến được bố trí cắt ngang các trạng thái rừng phổ biến trong khu vực. Bề rộng quan sát trên tuyến là 20m (mỗi bên 10m), trên tuyến tiến hành điều tra ghi chép đặc điểm các trạng thái rừng, thống kê các loài đã gặp; ÔTC có diện tích 2.000m2, được bố trí ở những vị trí đại diện cho các trạng thái rừng phổ biến trong khu vực. Trong ÔTC tiến hành đo đếm toàn bộ cây gỗ, cây tái sinh, thực vật thảm tươi, lấy mẫu đất, đánh giá độ tàn che, độ che phủ.

Đối với rừng trồng: sử dụng lý lịch rừng trồng và điều tra ngoài hiện trường bằng phương pháp ÔTC điển hình. Diện tích ô điều tra 500m2. Trong ô tiến hành đo D1.3, Hvn, lấy mẫu đất.

(Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Công nghệ Lâm nghiệp với phát triển rừng bền vững và biến đổi khí hậu, trang 116-125 )

Tin mới nhất

Các tin khác

[logo-slider]