Võ Nguyên Huân
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chúng ta phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường nhằm xác định những ngành hàng, mặt hàng có lợi thế so sánh, có khả năng cạnh tranh trên thương trường để tập trung nguồn lực phát triển sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho đất nước.
Bài viết này đề cập đến thị trường hàng hóa lâm sản Việt Nambao gồm gỗ và các sản phẩm ngoài gỗ chủ yếu. Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường trong nước, chúng tôi đi sâu nghiên cứu thị trường xuất khẩu hàng hóa lâm sản, đặc biệt là ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu, một ngành hàng đang có tiềm năng và bước tiến lớn trong vài năm gần đây.
I. Thị trường hàng hóa lâm sản trong nước
1. Khả năng cung cấp hàng hóa lâm sản của Việt Nam
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ từ nhiều nguồn như Tổng cục Thống kê, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Điều tra Quy hoạch rừng,… chúng tôi tổng hợp được khả năng cung cấp lâm sản của Việt Nam giai đoạn 1995 đến năm 2002 như biểu 1
Biểu 1: Sản lượng khai thác một số lâm sản chủ yếu của Việt Namtừ năm1995 – 2002.
TT | Loại sản phẩm | Đơn vị tính | Năm | |||||||
1995 | 1996 | 1997 | 1998 | 1999 | 2000 | 2001 | 2002 | |||
1 | Gỗ tròn | 1000 m3 | 2.793,1 | 2.833,5 | 2.480 | 2.216,8 | 2.122,5 | 2.375,6 | 2.397,2 | 2.504 |
2 | Nhựa thông | Tấn | 5.350 | 6.348 | 6.387 | 6.776 | 7.182 | |||
3 | Vỏ quế | Tấn | 7.790 | 3.658 | 3.954 | 2.100 | 3.166 | 3.550 | 3.880 | 5.067 |
4 | Tre | 1000 cây | 67.026 | 120.858 | 174.189 | 172.649 | 171.000 | |||
5 | Nứa | 1000 cây | 108.500 | 104.779 | 105.175 | 248.301 | 150.000 | |||
6 | Trúc | Triệu cây | 15.600 | 24.664 | 26.492 | 12.197 | 100.000 | |||
7 | Song mây | Tấn | 28.500 | 25.975 | 25.639 | 80.097 | 65.700 | |||
8 | Quả hồi | Tấn | 1.870 | 6.672 | 9.896 | 9.500 | 5.000 | 3.426 |
Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ NN & PTNT
Các con số thống kê chắc còn thấp hơn số lâm sản khai thác hàng năm vì ta không thống kê được hết các sản phẩm do các hộ gia đình và cá nhân khai thác. Khối lượng gỗ tròn lưu thông ở thị trường trong nước hiện nay vào khoảng từ 3 triệu m3 đến 3,5 triệu m3. Trong đó gỗ rừng tự nhiên từ 400.000 – 500.000 m3, gỗ rừng trồng từ 1,5 triệu m3 đến 1,6 triệu m3, gỗ nhập khẩu từ 800.000 m3 đến 1,0 triệu m3. Ngoài khối lượng gỗ tròn khai thác và lưu thông trên đây, hàng năm Việt Namcòn khai thác khoảng 25 – 30 triệu ste củi.
2. Thị trường tiêu thụ hàng hóa lâm sản chính hiện nay
2.1. Tiêu thụ gỗ
Hiện nay việc tiêu thụ gỗ ở nước ta tập trung ở 1 số lĩnh vực sau:
– Cung cấp cho công nghiệp sản xuất giấy, bột giấy khoảng 860.000 m3
– Cung cấp cho công nghiệp mỏ khoảng 170.000 m3
– Cung cấp cho các nhà máy sản xuất ván nhân tạo: 470.000 m3
– Cung cấp cho các nhà máy dăm mảnh xuất khẩu khoảng 300.000 – 500.000 m3
– Làm nguyên liệu cho xây dựng cơ bản, dân dụng như làm nhà ở, giàn giáo, cừ tràm, cừ đước.
– Sử dụng cho chế biến hàng mộc dân dụng và xuất khẩu.
Từ những nhu cầu thiết yếu trên, chúng ta có thể xác định:
Tiêu thụ gỗ trong nước cho sản xuất than, giấy và ván nhân tạo khoảng 60%. Tiêu thụ gỗ xây dựng cơ bản, dăm mảnh và đồ mộc khoảng 40%. Trong những năm gần đây, ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu phát triển nhảy vọt, sản lượng gỗ tròn khai thác trong nước không cung cấp đủ cho ngành sản xuất đồ gỗ xuất khẩu và phục vụ nhu cầu nội địa. Vì thế, Việt Namđã phải nhập khẩu nhiều gỗ nguyên liệu với các chủng loại khác nhau từ các nước trên thế giới.
2.2. Tiêu thụ nhựa thông
Nhựa thông được cung cấp cho các nhà máy chế biến và 1 phần xuất khẩu dạng nhựa thô và Colophan sang các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Đức. ở Việt Nam có 3 nhà máy chế biến nhựa thông liên doanh với nước ngoài, trong đó 2 cơ sở liên doanh với Nhật (tại Quảng Ninh và Quảng Bình với công suất 7.000 tấn/năm) và 1 cơ sở liên doanh với Trung Quốc tại Hà Tĩnh, công suất 4000 tấn/năm. Ngoài ra có 1 số nhà máy có công suất nhỏ ở Lạng Sơn, Nghệ An, Lâm Đồng, Quảng Trị,…
Sản phẩm được chế biến từ nhựa thông (colophan và dầu thông) phần lớn được sử dụng trong nước cho ngành giấy 1000 tấn colophan/năm, ngành hóa chất 400 tấn colophan và khoảng 100 tấn dầu thông/năm; xuất khẩu colophan bình quân khoảng 4.500 tấn/năm sang các nước Nhật, ấn Độ, Hồng Công, Pháp, Đức,…
2.3. Tiêu thụ quế
Lượng vỏ quế khai thác hàng năm chủ yếu được dùng để xuất khẩu và 1 phần nhỏ được sử dụng làm dược phẩm, thực phẩm trong nước. Việt Nam xuất khẩu quế ra 14 nước trên thế giới, trong đó xuất khẩu nhiều nhất tới các nước như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, Singapo, Hà Lan, Hungary… Sản lượng quế xuất khẩu hàng năm khoảng 2500 tấn. Ngoài việc xuất khẩu vỏ quế, Việt Nam đã và đang tìm hiểu thị trường để xuất khẩu cọng lá quế (có ký hiệu là YBC) ra 1 số nước trên thế giới, hàng năm xuất khẩu được hơn 10 tấn cọng lá quế.
2.4. Tiêu thụ quả hồi
Sản phẩm của cây hồi là quả hồi và tinh dầu hồi (tinh dầu hồi được chưng cất từ quả hồi). Hàng năm nước ta sản xuất được từ 3 đến 5 ngàn tấn quả hồi. Hồi của nước ta được xuất sang các thị trường Pháp, Anh, Đức, Hồng Công, Singapo với khối lượng bình quân hàng năm khoảng 1500 tấn quả khô và 80 tấn tinh dầu hồi. Quả hồi và tinh dầu hồi tiêu thụ ở trong nước với khối lượng nhỏ cho ngành dược liệu và làm chất phụ gia cho ngành thực phẩm.
2.5. Tiêu thụ tre, nứa:
ở Việt Nam phần lớn tre nứa được sử dụng làm hàng thủ công, mỹ nghệ, vật liệu xây dựng và làm nguyên liệu cho công nghiệp giấy.
– Làm hàng thủ công mỹ nghệ: Hàng năm số lượng tre nứa dùng làm hàng thủ công mỹ nghệ chiếm một tỷ lệ khá lớn. Ngoài những sản phẩm tiêu thụ trong nước, chúng ta còn sản xuất nhiều mặt hàng mỹ nghệ để xuất khẩu. Hiện tại Việt Nam có 88 nhà máy, xí nghiệp và hàng trăm làng nghề chế biến tre, nứa, trúc phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Hàng tre nứa của Việt Nam đã được xuất ra 94 nước trên thế giới như Nhật bản, Hàn Quốc, Đài Loan, các nước châu Âu…
– Làm vật liệu xây dựng: Hiện nay khoảng 50% vật liệu nhà ở nông thôn và miền núi làm từ tre nứa, ngoài ra tre nứa đã được đưa vào sản xuất dạng công nghiệp như: làm ván dăm, ván cót ép, ván sàn, vách ngăn và các dụng cụ thông dụng như đũa tre, bát đĩa,v.v.. rất được ưa chuộng. Đặc biệt ván sàn làm từ tre nứa có giá trị tương đương với ván sàn làm từ các loài cây gỗ quí thuộc nhóm I như Giáng hương, Sa mu, Đinh hương…
– Dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp giấy sợi: Tổng công suất của các nhà máy sản xuất giấy và bột giấy ở Việt Nam hiện nay khoảng 350.000 tấn/năm. Trong tương lai, ngành công nghiệp giấy của nước ta sẽ đòi hỏi 1 số lượng tre nứa và gỗ rất lớn, đến năm 2010 Việt Nam sẽ sản xuất từ 2 đến 2,5 triệu tấn giấy và bột giấy/năm. Với tỷ lệ 30% nguyên liệu bột giấy từ tre nứa, hàng năm chúng ta cần 3 – 4 triệu tấn tre nứa cho ngành công nghiệp giấy (5 -6 kg tre nưa tươi cho 1 kg bột giấy).
– Dùng làm thực phẩm: Măng tre nứa được sử dụng làm thực phẩm dưới dạng tươi, măng muối chua hoặc măng khô. Hầu hết các loài tre nứa đều cho măng ăn được. Từ năm 1997 Việt Namđã nhập nội 1 số loài tre để trồng lấy măng như: Điền trúc, Bát độ, Tạp giao, Lục trúc, Mạnh tông cho năng suất măng khá cao. Điều này đã mở ra một khả năng lớn về xuất khẩu măng tươi.
2.6. Tiêu thụ song mây
Song mây là nguyên liệu để làm nhiều mặt hàng như đồ gia dụng, sản phẩm mỹ nghệ dùng trong nước và xuất khẩu. Hàng năm ta xuất khoảng 2 triệu sản phẩm đan lát, 500.000 – 600.000 m2 mây đan và nhiều mặt hàng khác chế biến từ song mây (Nguyễn Quốc Dựng, 2000). Hàng song mây của Việt Nam chủ yếu xuất sang các nước Đức, ý, Nhật, Hồng Công, Singapo và Cu Ba… Nhu cầu của thị trường ngày càng lớn, chúng ta không có đủ nguyên liệu để cung cấp cho 36 xí nghiệp và nhiều làng nghề chế biến song mây (làm hàng xuất khẩu) đang hoạt động ; vì vậy 1 phần nguyên liệu được nhập qua đường tiểu ngạch từ Lào và Campuchia.
Từ thực tế trên đây ta thấy thị trường trong nước rất có tiềm năng. Nhu cầu sử dụng gỗ trong nước cho xây dựng và các mặt hàng chế biến từ gỗ (giấy, ván nhân tạo) sẽ ngày càng tăng, đặc biệt nhu cầu gỗ để chế biến đồ gỗ xuất khẩu tăng đột biến, nguồn khai thác trong nước không đủ cung cấp, nên đã phải nhập khẩu khoảng 1 triệu m3 từ nước ngoài.
Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ mây tre đan, các loại đặc sản rừng như nhựa thông, hồi, quế… phần lớn được xuất khẩu ra thị trường các nước châu á, châu Âu và châu Mỹ.
Để đáp ứng nhu cầu thị trường lâm sản trong nước cũng như thị trường nước ngoài, ngành lâm nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong khâu tạo rừng để nâng cao năng suất và chất lượng nguyên liệu gỗ và lâm sản ngoài gỗ, đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu cho thị trường. Ngành công nghiệp chế biến lâm sản cần được trang bị các dây chuyền công nghệ và thiết bị hiện đại để giảm tiêu hao nguyên nhiên vật liệu, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, đủ sức cạnh tranh và cạnh tranh thành công trên thương trường.
3. Các kênh thị trường
Kênh lưu thông phân phối hay còn gọi là kênh thị trường là dòng của một sản phẩm từ nơi mà sản phẩm đó được sản xuất ra đến người sử dụng cuối cùng: Từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Kênh thị trường lâm sản được thể hiện qua sơ đồ sau:
Các chủ rừng: Lâm trường, hộ gia đình, cá nhân, trang trại,… |
Các đầu mối trung gian: Công ty, đại lý, tư thương |
Công ty lâm sản |
Cơ sở chế biến, nhà máy |
Cửa hàng buôn bán |
Người tiêu dùng |
Cơ sở xuất khẩu |
Những kênh chính tiêu thụ sản phẩm lâm nghiệp như sau:
Kênh số 1:
Các chủ rừng bán lâm sản cho các đầu mối trung gian của Nhà nước và các công ty tư nhân hay thương nhân. Từ đây họ bán lâm sản cho các công ty lâm sản, tiếp theo các công ty này bán cho các cơ sở chế biến hoặc các cửa hàng buôn bán lâm sản. Lâm sản sau khi được chế biến ở các cơ sở và nhà máy, họ bán cho người tiêu dùng và các công ty xuất khẩu. Hiện nay kênh lưu thông này tiêu thụ khối lượng lâm sản chiếm tỷ lệ lớn. Đây là biểu hiện sinh động về sự rắc rối và vòng vèo trong lưu thông phân phối lâm sản vì phải trải qua nhiều khâu trung gian, làm tăng chi phí dịch vụ thương mại, ảnh hưởng đến giá bán nguyên liệu của các chủ rừng.
Kênh số 2:
Các chủ rừng bán lâm sản cho các công ty lâm sản và sau đó công ty lâm sản bán cho các cơ sở chế biến hay các cửa hàng buôn bán lâm sản. Nếu là cơ sở chế biến thì họ sẽ chế biến và nếu là cửa hàng buôn bán thì họ bán ngay. Kênh lưu thông này tỏ ra thích hợp hơn hiện nay ở Việt Namvì hệ thống giao thông và phương tiện vận chuyển lâm sản kém. Tuy nhiên, kênh này lại không tiêu thụ được khối lượng lâm sản nhiều bằng kênh số 1.
Kênh số 3:
Các chủ rừng bán trực tiếp lâm sản cho các cơ sở chế biến và cửa hàng buôn bán. Sau khi đã chế biến, các nhà máy bán cho người tiêu dùng qua mạng lưới tiêu thụ của họ hoặc bán cho công ty xuất khẩu. Hiện nay, đây là kênh thị trường rất khó thực hiện vì cơ sở sản xuất nguyên liệu (chủ rừng) không đủ khả năng tiếp thị và vận chuyển, hơn nữa nhà máy không muốn mua những khối lượng nhỏ lẻ, rải rác hàng ngày.
Kênh số 4:
Các chủ rừng(lâm trường, trang trại, hộ gia đình,…) tự chế biến và bán qua mạng lưới tiêu thụ của họ, kênh tiêu thụ này hiện nay chiếm thị phần rất nhỏ nhưng tránh được các khâu trung gian. Muốn thực hiện được, người sản xuất (chủ rừng) phải có vốn lớn và có khả năng cũng như kinh nghiệm sản xuất và tiếp thị.
4. Giá cả hàng hóa lâm sản
Giá cả một số mặt hàng lâm sản chủ yếu được thể hiện ở biểu 2.
Biểu 2: Giá cả 1 số mặt hàng lâm sản chủ yếu hiện nay
TT | Mặt hàng | Đơn vị tính | Mức giá (1000đ) | Địa điểm |
1 | Nguyên liệu giấy | Tấn | 420 – 450 | Tại nhà máy |
2 | Nguyên liệu ván nhân tạo | Tấn | 280 – 350 | Tại nhà máy |
3 | Dăm mảnh xuất khẩu | Tấn | 300 – 320 | Tại bãi giao |
4 | Gỗ trụ mỏ | m3 | 385 – 395 | Tại mỏ than |
5 | Gỗ xây dựng, giàn giáo, cừ tràm, cừ đước | m3 | 800 – 1000 | Tại bãi giao |
6 | Nhựa thông | Kg | 3,8 – 4,2 | Tại nhà máy |
7 | Quế thông | Kg | 40 | Tại xí nghiệp |
8 | Quế xô | Kg | 10 – 14 | Tại xí nghiệp |
9 | Quế vụn | Kg | 7 | Tại xí nghiệp |
10 | Song mây | Kg | 2,1 – 2,2 | Tại xí nghiệp |
11 | Quả hồi | Kg | 20 – 25 | Tại xí nghiệp |
12 | Tre | Cây | 5 – 10 | Tại chợ |
13 | Nứa | Cây | 2 -3 | Tại chợ |
Sự hình thành giá:
Thực tiễn ở Việt Nam, giá gỗ và lâm sản khác tại cửa rừng được hình thành theo cách lấy giá mua của các nhà máy xí nghiệp trừ đi chi phí khâu vận chuyển, lưu thông, dịch vụ thu gom, các loại thuế và kể cả những lệ phí phát sinh không theo bất kỳ một qui định nào. Thực tiễn này đã ảnh hưởng đến giá lâm sản của các chủ rừng, cụ thể như sau:
– Giá mua nguyên liệu (Gỗ và lâm sản khác) do nhà máy, xí nghiệp qui định tại kho của họ theo từng thời điểm cụ thể, vì vậy giá bán nguyên liệu tại cửa rừng của các chủ rừng phụ thuộc vào lượng gỗ và lâm sản tiêu dùng cho sản xuất của các nhà máy, xí nghiệp trong từng thời kỳ. Đây là yếu tố có ảnh hưởng mạnh nhất đến giá bán lâm sản tại cửa rừng, cho dù giá mua công bố tại nhà máy, xí nghiệp không thay đổi, nhưng lượng mua hạn chế, lập tức giá lâm sản tại cửa rừng giảm xuống mạnh.
– Khả năng cung cấp lâm sản của chủ rừng mang tính thời vụ, phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh của loài cây trồng rừng. Khi diện tích rừng trong vùng trồng rừng nguyên liệu đến tuổi khai thác còn ít, buộc các nhà máy, xí nghiệp phải nâng giá mua để thu hút nguyên liệu từ các vùng khác về nhà máy, xí nghiệp, nhưng khi khả năng cung cấp dồi dào hơn làm cho cung vượt cầu, giá lâm sản tại cửa rừng sẽ hạ thấp.
– Chi phí của khâu vận chuyển lâm sản từ cửa rừng về nhà máy, xí nghiệp phụ thuộc vào cự ly vận chuyển, phương tiện vận chuyển (thủy, bộ…) các khoản chi phí khác phát sinh trên đường vận chuyển, đó là các khoản phí và lệ phí. Các chủ phương tiện vận chuyển và người buôn chuyến, thông thường muốn có được sự thuận lợi cho công việc vận chuyển nên họ buộc phải nộp các khoản phí và lệ phí này, bất kể họ đúng hay sai luật. Họ chấp nhận nộp để không bị lưu lại lâu, không bị dỡ hàng để kiểm tra, và như vậy có nghĩa là lại cộng thêm chi phí. Những khoản phí này cuối cùng đều được khấu trừ vào giá mua lâm sản tại cửa rừng, người sản xuất (chủ rừng) gián tiếp gánh chịu.
– Lệ phí địa phương đã và đang hình thành ở nhiều nơi cũng có ảnh hưởng tới giá nguyên liệu lâm sản. Trên địa bàn nhiều xã đều có trạm gác thu tiền của tất cả các xe chở hàng đi qua xã (bình quân 10.000đ/xe không có chứng từ). Chi phí này do người buôn chi trả và cũng khấu trừ vào giá mua nguyên liệu lâm sản.
– Chi phí thu mua và tiêu thụ nguyên liệu lâm sản: Đây là khoản chi phí phát sinh trong khâu thương mại, dịch vụ bao gồm chi phí cho bộ máy thực hiện chức năng thu mua, bán hàng, chi phí trả lãi tiền vay cho dự trữ và tiêu thụ nguyên liệu, nộp thuế VAT, thuế buôn chuyến, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất (nộp thuế thay cho chủ rừng), các chi phí này đều được khấu trừ vào giá mua nguyên liệu các loại lâm sản.
Như vậy, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới giá bán nguyên liệu lâm sản gây nên sự thua thiệt cho người sản xuất (chủ rừng). Thông thường giá bán nguyên liệu các loại lâm sản tại cửa rừng (bãi 1) chỉ bằng 2/3 hoặc 1/2 giá mua tại các nhà máy hay xí nghiệp.
II. Thị trường xuất khẩu hàng hoá lâm sản của Việt Nam
1. Các mặt hàng và kim ngạch xuất khẩu chính
Hàng hoá lâm sản của Việt Namhiện nay đã được xuất khẩu ra hàng trăm nước trên thế giới ở châu á, châu Âu và châu Mỹ. Các mặt hàng xuất khẩu chính bao gồm: Gỗ và sản phẩm gỗ, hàng mây tre đan, quế, hồi
Ngoài những mặt hàng chính trên còn xuất khẩu nhiều mặt hàng lâm sản ngoài gỗ khác như nhựa thông, thảo quả, sa nhân, các loại tinh dầu và động vật rừng.
Biểu 3: Giá trị xuất khẩu hàng hoá lâm sản
Đơn vị tính: Triệu USD
Loại hàng hoá | Giá trị xuất khẩu các năm 1995 – 2002 | |||||||
1995 | 1996 | 1997 | 1998 | 1999 | 2000 | 2001 | 2002 | |
1. Gỗ và sản phẩm gỗ | 114,5 | 160 | 187,3 | 125,1 | 224 | 240 | 343,6 | 460,2 |
2, Đồ gỗ mỹ nghệ | 20,7 | 43,1 | 74,13 | 112,13 | 157,91 | |||
3. Hàng mây tre đan | 30,7 | 44,9 | 37,7 | 36,8 | 21,48 | 49,68 | 74,96* | 91,53* |
4. Quế | 6,76 | 5,1 | 3,76 | 4,48 | 5,63 | |||
5. Hồi | 6,5 | 8,5 | – | 1,42 | 2,51 | |||
Tổng cộng | 238,9 | 281,7 | 239,8 | 363,7 | 445,7 |
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; *Phan Sinh (Bản tin LSNG 7/2004)
Trong các mặt hàng xuất khẩu trên thì gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 50%) và hiện nay đang nổi lên như 1 ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
2. Thực trạng ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu
Theo thống kê tính đến đầu tháng 10/2003 cả nước có khoảng 2000 doanh nghiệp chế biến gỗ, trong đó có hơn 300 doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ xuất khẩu. Trong số các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ xuất khẩu có 60 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thu hút 170.000 lao động trên cả nước, với nhiều nghệ nhân có trình độ tay nghề cao. Một số trung tâm như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Bình Định, Đồng Nai đã hình thành các khu liên hợp chế biến gỗ tầm cỡ.
Bên cạnh các doanh nghiệp còn có 342 làng nghề gỗ mỹ nghệ, tập trung ở 1 số tỉnh, thành phố như Bắc Ninh, Hà Tây, Nam Hà, Bình Dương, An Giang.
Đồ gỗ Việt Nam đã xuất khẩu ra trên 120 nước và vùng lãnh thổ, lớn nhất là Nhật Bản, EU, Đài Loan và Mỹ, trong đó Mỹ là thị trường có tốc độ phát triển cao nhất, dự kiến tăng tới 150% trong năm 2004 với tỷ trọng chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam.
Theo Bộ Thương mại, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam năm 2003 đạt 560 triệu USD, sáu tháng đầu năm 2004 đã đạt 600 triệu USD và dự kiến cả năm 2004 có khả năng đạt khoảng 1 tỷ USD.
Nhìn ở tầm trung và dài hạn, đồ gỗ xuất khẩu ở nước ta có triển vọng phát triển nhanh và ổn định vì thị phần đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam chỉ chiếm 0,2% kim ngạch nhập khẩu của EU, 0,86% của Mỹ và 7,3% của Nhật Bản, nghĩa là giới hạn an toàn phát triển thị trường còn rất rộng (xấp xỉ 20% thị phần mới bị các nước nhập khẩu dè chừng). Tuy nhiên, bên cạnh tăng trưởng kim ngạch, thị trường, ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu còn bị hạn chế từ nguyên liệu. Theo tính toán cứ 500 triệu USD xuất khẩu cần có khoảng 1.3 triệu m3 gỗ tròn nguyên liệu, nếu đặt mục tiêu 1 tỷ USD xuất khẩu năm nay thì cần có 2,6 triệu m3 gỗ tròn, trong khi khả năng cung cấp trong nước có hạn nên phải nhập khẩu, (biểu 1).
Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Namước tính rằng, các nhà sản xuất trong nước phải nhập khẩu khoảng 80% nguyên liệu cho nhu cầu. Đối với sản phẩm đồ gỗ cho sân vườn ngoài trời thì Việt Nam phải nhập 100% nguyên liệu gỗ xẻ từ nước ngoài từ úc, New Zealand, Campuchia, Indonesia. Còn hàng nội thất thì nguyên liệu gỗ nội địa cũng chỉ đáp ứng được 50%.
Nhận định chung: Mặc dù cả nước đã có hàng nghìn doanh nghiệp chế biến đồ gỗ, nhưng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, thiết bị lạc hậu, sản phẩm còn mang nặng đặc điểm gia công, giá trị thấp, mẫu mã còn đơn điệu, chưa có thương hiệu, rất ít doanh nghiệp xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng ISO. Vì vậy, để theo kịp với yêu cầu chất lượng sản phảm ngày càng cao, số lượng đơn hàng ngày càng lớn, đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của toàn ngành và sự giúp đỡ hỗ trợ của các ngành các cấp khác và của Chính phủ.
3. Lợi thế cạnh tranh
3.1. Việt Nam chủ động mở cửa hội nhập kinh tế, tìm kiếm thị trường xuất khẩu lâm sản
Sự mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Namở các mức độ như sau: Hội nhập toàn cầu, khu vực ASEAN và hội nhập với các nước cũng như cùng các công ty quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang tham gia vào các tổ chức và các quốc gia như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC) và ký với Hoa Kỳ hiệp định thương mại, giành cho nhau những ưu đãi trong hợp tác cũng như trao đổi hàng hoá với Nhật Bản, Pháp, Cộng đồng Châu Âu (EU) và đang tích cực chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Thông qua các hiệp định thương mại đa phương, song phương, tham gia vào các định chế kinh tế quốc tế và khu vực, tạo nên cơ hội lớn để đưa nông sản hàng hoá thâm nhập vào nhiều quốc gia, khu vực và trên thị trường quốc tế, từ đó mở ra khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu lâm sản.
3.2. Chính phủ đã có nhiều chính sách và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá lâm sản
Chính phủ đã thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhằm cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện kinh doanh xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu. Hạn mức tín dụng xuất khẩu ưu đãi và hạn mức tín dụng bảo lãnh xuất khẩu được qui định cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu ở các lĩnh vực ngành hàng thuộc đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp được chế biến, xuất khẩu không hạn chế về số lượng, giá trị; khi xuất khẩu doanh nghiệp chỉ phải làm thủ tục tại hải quan cửa khẩu và không phải xuất trình nguồn gốc (riêng xuất khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ cần có xác nhận của hạt kiểm lâm sở tại).
Gỗ rừng trồng được xuất khẩu ở mọi dạng sản phẩm, kể cả gỗ cây, tháo gỡ tối đa những vướng mắc về thủ tục kiểm tra, kiểm soát trong lưu thông vận chuyển, tiêu thụ và xuất khẩu.
Các khu công nghiệp gỗ cũng đang được xây dựng giúp các doanh nghiệp tự sắp xếp, đổi mới công nghệ, chia sẻ kinh nghiệm. Bên cạnh công tác xúc tiến thương mại nhắm tới cá thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật… Hiệp hội Đồ gỗ cũng được kiện toàn nhằm phát huy vai trò, thế mạnh của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ cũng được tiếp cận thị trường lớn hoặc trở thành mạng lưới cho các tập đoàn lớn.
Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Thương mại đã chính thức phê duyệt 4 chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia năm 2004 của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, thực hiện trong năm 2004 với tổng kinh phí 3,7 tỷ đồng. Các chương trình này gồm quảng bá thương hiệu; đào tạo năng lực; tham gia triển lãm quốc tế sản phẩm gỗ và máy chế biến gỗ 2004 tại Mỹ, kết hợp khảo sát thị trường Mỹ; triển lãm các sản phẩm gỗ làm từ gỗ xẻ và ván nhân tạo 2004 tại Nga, kết hợp khảo sát thị trường Nga.
3.3. Việt Nam có nhiều tiềm năng về xuất khẩu đồ gỗ
Hàng đồ gỗ gia dụng Việt Nam đã thâm nhập thị trường 120 nước, vùng lãnh thổ và đang có cơ hội vượt qua các nước trong khu vực như Malaixia, Indonexia, Thái Lan để vào thị trường giầu tiềm năng Hoa Kỳ, nơi hàng năm kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ lên tới 15 tỷ USD. Với giá rẻ hơn 10% so với đồ gỗ Trung Quốc, nước xuất khẩu đồ gỗ hàng đầu thế giới, hàng đồ gỗ Việt Nam đang được các công ty nhập khẩu và các công ty bán lẻ đồ gỗ Mỹ tìm kiếm để nhập khẩu.
Với lợi thế có nguồn nhân lực dồi dào, tay nghề cao, có thể sản xuất các mặt hàng gỗ với giá cạnh tranh, khả năng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Namtiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn nữa trong các năm tới là hoàn toàn có cơ sở.
Một thuận lợi nữa cho việc xuất khẩu đồ gỗ Việt Namhiện nay là từ ngày 1/5/2004. Mỹ đánh thuế chống bán phá giá rất cao đối với mặt hàng đồ gỗ của Trung Quốc với mức thuế phá giá từ 4,9 – 198%. Đây chính là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp sản xuất chế biến đồ gỗ Việt Nam tăng cường xuất khẩu vào Mỹ. Nhiều nhà nhập khẩu Mỹ đã bắt đầu tìm đến các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu Việt Nam tìm hiểu khả năng sản xuất và đặt hàng lấp vào khoảng trống của các doanh nghiệp Trung Quốc.
Hiệp hội Gỗ mỹ nghệ TP. Hồ Chí Minh (Hawa) cho hay: Nhờ khả năng có thể đảm nhận được những đơn hàng phức tạp, sắc sảo về kiểu dáng, hoa văn, sản phẩm chuyên sâu… mà doanh nghiệp Việt Namđã khẳng định được vị trí của mình. Nhiều hợp đồng đã được chuyển địa chỉ đến các doanh nghiệp Việt Nam, chính vì vậy các doanh nghiệp chế biến gỗ đang nhộn nhịp đầu tư máy móc, mở rộng nhà xưởng để đáp ứng khối lượng đơn đặt hàng tăng nhanh.
3.4. Mở rộng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất lâm nghiệp nói chung và chế biến lâm sản nói riêng
Trong những năm qua đã có nhiều tổ chức quốc tế đầu tư hỗ trợ cho ngành lâm nghiệp Việt Nam như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), các nước Hà Lan, Thuỵ Điển, Đức, Nhật Bản… để trồng rừng và bảo vệ rừng. Bên cạnh đó đã có gần chục liên doanh đầu tư vào trồng rừng và xuất khẩu dăm mảnh như Haitaico, Habico, Vijachip, Pisico, Vitaico, Viko, công ty Kiên Tài, Phú Đông. Hiện nay đã có hơn 20 tổ chức quốc tế cam kết đầu tư hỗ trợ dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, tạo tiền đề quan trọng để ngành lâm nghiệp Việt Namphát triển bền vững.
Trong lĩnh vực chế biến gỗ lần đầu tiên có sự quan tâm của giới đầu tư quốc tế. Cụ thể tập đoàn Shinghoa của Trung Quốc đang có 1 dự án trị giá 50 triệu USD chuyên sản xuất đồ gỗ ở tỉnh Đồng Nai. Dự án dự kiến tuyển dụng 20.000 công nhân viên Việt Nam. Khi hoàn tất vào tháng 10/2004 dự án Shinghoavina sẽ đạt 80 triệu USD lợi nhuận/năm nhờ xuất khẩu. ởBình Dương có dự án Kaizevina của Đài Loan đầu tư hơn 40 triệu USD sản xuất đồ gỗ cao cấp, thu hút 4000 thợ và nghệ nhân Việt Nam. Dự án này dự kiến xuất khẩu 300 – 400 côngtennơ bàn ghế gỗ cao cấp/tháng.
Ngoài các nhà đầu tư Trung Quốc và Đài Loan thì nhiều Việt kiều ở Mỹ cũng về Việt Nam hợp tác đầu tư mở nhà xưởng để sản xuất các mặt hàng trang trí nội thất bằng gỗ ngay tại Việt Nam.
Thông qua các chương trình hợp tác khoa học công nghệ đa phương, song phương, các dự án phát triển, các nguồn hỗ trợ quốc tế cho dự án trồng mới 5 triệu ha rừng… ngành lâm nghiệp Việt Nam có nhiều khả năng và cơ hội học hỏi tiếp cận công nghệ sản xuất và nghệ thuật quản lý tiên tiến. Đó là nhân tố rất quan trọng cho việc phát triển sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh cho lâm sản hàng hoá.
4. Khó khăn cạnh tranh
Bên cạnh những lợi thế trên đây thì việc xuất khẩu hàng hoá lâm sản nói chung và đồ gỗ nói riêng của Việt Namcũng còn không ít khó khăn và thách thức về quy mô, thiết bị, vốn đầu tư, nguyên liệu và con người.
4.1. Quy mô, công nghệ và thiết bị
Quy mô của các xí nghiệp sản xuất đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam phần lớn còn nhỏ, kỹ thuật lạc hậu không đáp ứng được các đơn hàng lớn yêu cầu cao về chất lượng và thời hạn giao hàng. Sự liên kết giữa các xí nghiệp sản xuất đồ gỗ xuất khẩu với nhau và cơ sở gia công nguyên liệu thiếu chặt chẽ. Sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu của các xí nghiệp chủ yếu sản xuất bằng 100% gỗ, tỷ lệ kết hợp nguyên liệu gỗ với các nguyên liệu khác như inox, nhựa, kính, da và vải còn thấp. Trình độ sáng tạo mẫu mã còn hạn chế, chủ yếu sản xuất theo mẫu mã của người đặt hàng nước ngoài. Bên cạnh đó ngành sản xuất chế biến đồ gỗ chưa xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn để các doanh nghiệp theo đó tổ chức sản xuất, nên mạnh ai nấy làm, vừa tốn công sức, vừa hiệu quả thấp.
4.2. Vốn đầu tư
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Namđều rơi vào tình trạng chung là thiếu vốn đầu tư. Tính trung bình để đầu tư cho 1 nhà xưởng có diện tích khoảng 4000 m2 với đủ máy móc thiết bị cần thiết thì cần phải có khoảng 1 triệu USD. Đây là một số vốn đầu tư khá lớn mà không phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được. Vì vậy để giải quyết khó khăn này, bên cạnh việc vay ưu đãi từ quỹ hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, cách tốt nhất là các doanh nghiệp sản xuất, chế biến trên cùng 1 địa bàn nên liên kết, hợp tác với nhau để có đủ vốn đầu tư mở rộng sản xuất.
4.3. Nguyên liệu
Sản xuất đồ gỗ gia dụng xuất khẩu phát triển mạnh ở Việt Namtrong mấy năm vừa qua, trong những năm đầu thị trường nguyên liệu còn dồi dào, nhưng hiện nay nguồn cung cấp không thể đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhà sản xuất. Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam ước tính rằng, các nhà sản xuất trong nước phải nhập khẩu khoảng 80% nguyên liệu cho nhu cầu. Điều đáng nói ở đây là việc nhập khẩu gỗ sẽ còn kéo dài khoảng 15 năm nữa, cho tới khi chương trình trồng rừng kinh tế của Việt Nam thành công và có đủ nguyên liệu cung cấp cho chế biến.
Sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài khiến các doanh nghiệp ngành gỗ bị động trong sản xuất. Sự bị động của các doanh nghiệp thể hiện rất rõ khi giá nguyên liệu tăng. Trong nửa đầu năm 2004, giá gỗ nguyên liệu nhập khẩu tăng từ 15 – 20% so với cùng kỳ năm trước. Giá nguyên liệu nhập khẩu gia tăng làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp chế biến hàng gỗ xuất khẩu giảm. Khi giá gỗ nguyên liệu thế giới tăng thì nhập khẩu về Việt Namcòn cao hơn do doanh nghiệp nhập nhỏ lẻ, cước phí vận tải cao.
4.4. Nhân lực
Với mức tăng trưởng nhanh chóng, các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ nói chung và đồ gỗ xuất khẩu nói riêng đang rơi vào tình trạng thiếu công nhân có tay nghề cao, thiếu kỹ sư chế biến lâm sản và cán bộ quản lý giỏi. Chẳng hạn ở Bình Dương hiện có trên 100 doanh nghiệp chế biến lâm sản đang hoạt động, nhưng tất cả chỉ có khoảng 50 kỹ sư chế biến lâm sản, bình quân cứ hơn 2 doanh nghiệp mới có 1 kỹ sư (Hoàng Xuân Niên).
Để có đủ kỹ sư, cán bộ quản lý và công nhân chế biến cung cấp cho các doanh nghiệp trực thuộc, các cơ sở tư nhân và làng nghề thì phải tăng cường công tác đào tạo cả về số lượng cũng như chất lượng. Theo kế hoạch trong giai đoạn 2005 – 2010 cần đào tạo 1800 kỹ sư chế biến và cán bộ quản lý, 3300 công nhân chế biến, song với tốc độ đào tạo quá chậm như hiện nay ở các trường lâm nghiệp thì khó đáp ứng được yêu cầu trên.
Đứng trước thực tế này, một số doanh nghiệp đã đưa người đi tu nghiệp, đào tạo ở nước ngoài và họ còn tính đến chuyện tuyển dụng nhân sự người nước ngoài để đáp ứng được các yêu cầu khắt khe trong quản lý khi phải tăng cường sản xuất hàng hoá với khối lượng lớn.
5. Đề xuất giải pháp cạnh tranh
Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường lấy thị trường làm mục tiêu đạt tới và là động lực để thúc đẩy phát triển sản xuất, đồng thời phải lấy thị trường làm đối tượng phục vụ, thoả mãn mọi yêu cầu ngày càng cao của nhu cầu tiêu thụ trong nước cũng như ngoài nước. Để hàng hoá lâm sản Việt Namcó khả năng cạnh tranh và cạnh tranh thành công trên thương trường, chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau:
5.1. Xây dựng chính sách, chiến lược phát triển hàng hoá lâm sản
Tuy muộn nhưng chúng tôi đề nghị Nhà nước và Bộ Nông nghiệp và PTNT cần đầu tư và chỉ đạo sát sao để xây dựng chính sách vĩ mô, chiến lược phát triển sản xuất hàng hoá lâm sản có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Việc làm này cần cụ thể đến từng loại sản phẩm chính và có đi nghiên cứu thị trường thế giới để có giải pháp đúng.
Trong chiến lược phát triển hàng hoá lâm sản chúng ta phải xác định được nhu cầu đầu tư vốn, nhu cầu trang thiết bị và công nghệ hiện đại, nhu cầu và khả năng cung cấp nguyên liệu, nhu cầu nhân lực,… và đưa ra được những chính sách hợp lý để thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng thuận lợi.
2.5.2 Xây dựng những vùng sản xuất hàng hoá lâm sản xuất khẩu trọng điểm
Căn cứ vào tiềm năng của lâm nghiệp Việt Nam, căn cứ vào nhu cầu thị trường trong nước cũng như thế giới để chúng ta xác định loại sản phẩm chính tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu và giải quyết tổng thể các vấn đề được đặt ra.
Phân tích về tiềm năng và thực tế hiện nay ở Việt Nam, ngành lâm nghiệp cần đầu tư vào các khu vực sau để tạo nên động lực mới phát triển sản xuất hàng hoá lâm sản phục vụ cho xuất khẩu là: Khu vực thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hoà – Bình Dương; Khu vực Bình Định và Tây Nguyên; Khu vực Hà Nội; Khu vực Nghệ An; Khu vực Nam Hà, Bắc Ninh và Hà Tây.
Những mặt hàng lâm sản xuất khẩu của Việt Nam là đồ gỗ ngoài trời, đồ gỗ nội thất, đồ gỗ mỹ nghệ, hàng mây tre đan, hồi, quế, nhựa thông và các loại tinh dầu.
Những nội dung cần phải làm trong các khu vực trọng điểm sản xuất hàng hoá xuất khẩu là: Quy hoạch phát triển, đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu và cơ sở hạ tầng, mua sắm và lắp đặt dây chuyền công nghệ thiết bị, liên kết hợp tác và chuyên môn hoá trong sản xuất, xúc tiến thương mại v.v…
5.3. Đổi mới quản lý, ổn định thị trường sản xuất lâm sản
Đổi mới vai trò quản lý Nhà nước trong việc ổn định thị trường, hỗ trợ cho sản xuất và xuất khẩu lâm sản hàng hoá là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hiện nay:
– Nhà nước định
Tin mới nhất
- Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp
- Ảnh hưởng của mật độ và phân bón đến năng suất rừng trồng Keo lai 9,5 năm tuổi ở Quảng Trị
- Nghiên cứu đặc điểm đất đai tại khu vực loài Trúc đen (Phyllostachys nigra Munro) phân bố tại Sa Pa, Lào Cai
- Phân tích chỉ số đa dạng sinh học của thực vật thân gỗ trong Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà - Tp. Đà Nẵng
- Nghiên cứu đa dạng di truyền cây Dầu rái (Dipterocarpus alatus Roxb.) bằng kỹ thuật RAPD
Các tin khác
- Một số kết quả ứng dụng công nghệ sinh học trong nhân giống cây lâm nghiệp
- ÁP DỤNG KỸ THUẬT LÂM SINH ĐỂ GIẢM THIỂU THIỆT HẠI DO BỆNH PHẤN HỒNG GÂY RA TRÊN RỪNG TRỒNG KEO LAI
- Đánh giá khả năng phát triển các loài cây thuốc tại Huyện Sa Pa –Tỉnh Lào Cai
- HỆ THỐNG HOÁ CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT LÂM SINH ÁP DỤNG CHO TRỒNG RỪNG SẢN XUẤT Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
- Hướng dẫn kỹ thuật trồng Sấu ghép