Phạm Quang Thu
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
1. Tổng quan về giá trị dược liệu của nấm Linh chi.
Nấm Linh chi được dùng như một thượng dược từ khoảng 4000 năm nay ở Trung Quốc và một số nước khác. Chưa thấy có tư liệu nào về tác dụng xấu và độc tính của Linh Chi.
Năm 1988, Nhật Bản đã có 300 bệnh nhân bị nhược cơ được điều trị thành công bằng Linh chi theo nguyên tắc điều hoà miễn dịch. Bệnh gan và tiết niệu cũng được điều trị khả quan bằng chế phẩm từ Linh chi. Bệnh viện Sơn Đông, Trung Quốc dùng “xúp” Linh chi để giải độc và bổ gan có kết quả tốt, trong 70.000 ca trên 90% khỏi bệnh (Lui Xing Jia, 1994). Tác giả cho rằng nấm Linh chi có tác dụng tốt đối với đường tiết niệu, điều hoà rối loạn tuần hoàn não, tránh các cơn kịch phát nghẽn mạch và làm dịu thần kinh. Trong 319 trường hợp, tỷ lệ khỏi bệnh đạt 89%.
Hiệu quả kìm hãm quá trình kết tụ tiểu cầu do chiết xuất của Linh chi được chứng minh rõ ràng bằng invitro. Năm 1990, Tao J. và Feng K. thử nghiệm với 33 bệnh nhân xơ cứng động mạch, trong đó hiệu quả chống nghẽn mạch tỏ ra khả quan. Kết quả thông báo mới đây của Wang Chi và cộng sự, 1994 trên 35 bệnh nhân bị bệnh mạch vành tim tỏ ra triển vọng tốt với tỷ lệ trên 85,7%.
Hàng loạt các hoạt chất của Linh chi được chứng minh có tác dụng kìm hãm sinh tổng hợp cholesterol. Kết quả này được thể hiện trong việc điều trị các trường hợp bệnh nhân cao huyết áp và nhiễm mỡ xơ mạch. Thực nghiệm ở Việt Nam trên chuột cho thấy lượng cholesterol giảm tới 50% khi áp dụng liều lượng 0,4 gam/kg thể trọng trong 30 ngày (Bùi Chí Hiếu và cộng sự, năm 1993). Trên cơ sở những kết quả này áp dụng điều trị sau một vài tuần, bệnh nhân có chuyển biến tốt, huyết áp ổn định dần, các cơn cao huyết áp nếu có tái phát cũng nhẹ hơn, thưa hơn và ngắn hơn. Dùng thuốc hạ huyết áp kinh điển, kết hợp với Linh chi, tác dụng điều chỉnh huyết áp tăng rõ rệt, hạn chế tác dụng phụ của Tây dược (Kanmastuse K. và cộng sự, 1985).
Hiệu quả chống ung thư của nấm Linh chi đã được chứng minh từ lâu đối với các bệnh nhân ung thư phổi, ung thư vú và ung thư dạ dày. Đối với những bệnh nhân này, tỷ lệ người sống trên 5 năm cao hơn nhóm không dùng nấm Linh chi. Tại Trung tâm điều trị các bệnh ung thư ở Tokyo, Nhật Bản, phương pháp điều trị bằng chế phẩm Linh chi, kết hợp với xạ trị cho kết quả tốt đối với các bệnh nhân ung thư tử cung. Đối với loại ung thư này, một số kết quả nghiên cứu ở Đài Loan cho biết nếu dùng Linh chi trồng trên gỗ Long não (Cinmamomum camphora) cho kết quả rất tốt, khối u tiêu biến hoàn toàn. Hiệu lực cũng thể hiện rõ đối với ung thư khoang miệng (Chen, T.W. và cộng sự, 1991), ung thư gan (Hau và cộng sự, 1996), đặc biệt kết hợp taxol từ cây Thông đỏ.
Khả năng antioxydant (chống lão hoá) cũng được nhiều công trình nghiên cứu. Kết quả thực nghiệm đã chỉ ra vai trò của các saponine – triterpenoids mà trong đó ganoderic axit được coi là hiệu quả nhất. Ngay từ thập kỷ 80, ở Trung Quốc đã chứng minh khả năng khử gốc tự do hydroxyl với đặc tính antioxydant, chống lão hoá của nấm Linh chi (Wang J.F.. và cộng sự 1985).
Linh chi có thể được đưa vào phác đồ điều trị tạm thời cho các bệnh nhân nhiễm HIV trong khi các loại thuốc AZT, DDT và DDC còn hiếm và đắt, chưa kể đến tác dụng phụ rất nặng. Có nhiều công trình nghiên cứu lâm sàng dùng Linh chi trong điều trị AIDS, đặc biệt là Gau, J.P. và cộng sự 1990 và Kim, B.K. và cộng sự năm 1996.
Chính vì hoạt tính dược lý của nấm Linh chi rất phong phú nên có nhiều tên gọi khác nhau như: Bất lão thảo, Vạn niên nhung, Thần tiên thảo, Linh chi. ởnước ta gọi là nấm Lim (vì mọc nhiều ở rừng Lim xanh)… trong đó tên Linh chi được dùng phổ biến nhất. Giáo sư Đỗ Tất Lợi đã gọi Linh chi là “siêu dược liệu”, hơn cả nhân sâm.
2. Chất lượng nấm Linh chi Việt Nam
Thành phần và hàm lượng các chất có hoạt tính sinh học chứa trong thể quả tự nhiên và thể quả nuôi trồng được tách chiết bằng 2 loại dung môi: ete dầu hoả và methanol. Thể quả mọc tự nhiên là chủng nấm Linh chi thu thập từ miền Bắc, chủng G.l.HB. Thể quả nuôi trồng giống nấm được phân lập từ chủng giống này và nuôi trồng trên giá thể là mùn cưa gỗ tạp. Kết quả tách chiết, thu được các lớp chất được trình bày ở bảng 1.
Bảng 1. Thành phần hoá học của nấm Linh chi tự nhiên và nuôi trồng.
Các lớp chất hoá học | Nấm tự nhiên | Nấm nuôi trồng | ||
Trọng lượng bình quân (gam) | Tỷ lệ (%) | Trọng lượng bình quân (gam) | Tỷ lệ (%) | |
Sterin
Lacton I Lacton II Ancaloides Glucosides và Ancaloides phân cực |
0,1291
0,1027 0,0994 0,1463 0,1821 |
1,291
1,027 0,994 1,463 1,821 |
0,1349
0,1035 0,1435 0,1359 0,3061 |
1,349
1,035 1,435 1,359 3,061 |
Kết quả ở bảng trên cho thấy cặn dịch chiết ete dầu hoả và methanol từ thể quả mọc tự nhiên và thể quả nuôi trồng về cơ bản là không có sự khác nhau về thành phần hoá học thể hiện trên sự có mặt của các lớp chất có hoạt tính sinh học và trọng lượng của nó.
Steroides (sterin) là nhóm các chất có hoạt tính sinh học, hiện nay đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới để sản xuất một số thuốc chữa bệnh tim mạch, vitamin nhóm D và các hoóc môn. Hàm lượng các chất steroides chứa trong thể quả nấm Linh chi Việt Namcao, chiếm 1,3%. Trong khi đó, theo số liệu phân tích của các nhà khoa học Trung Quốc, hàm lượng các chất steroides của Linh chi Trung Quốc chỉ chiếm 0,11% – 0,16%, thấp hơn khoảng 10 lần.
3. Cải thiện chất lượng nấm Linh chi thông qua kỹ thuật nuôi trồng nhân tạo
Chất lượng của nấm Linh chi có quan hệ chặt chẽ với thành phần của giá thể nuôi trồng. Bổ sung dinh dưỡng vào giá thể nuôi trồng hoặc sử dụng nguyên liệu có chứa các chất có hoạt tính sinh học cao thì chất lượng của nấm Linh chi được cải thiện. Kết quả phân tích thành phần hoá học của thể quả tự nhiên và thể quả nuôi trồng trên giá thể có bổ sung dinh dưỡng và mùn cưa cây Long não được trình bày ở bảng 2.
Bảng 2. Các lớp chất tách chiết từ thể quả tự nhiên và thể quả nuôi trồng
(Số liệu được phân tích bởi tập đoàn Yung Kiên, Đài Loan)
Lớp chất | Hàm lượng các chất theo trọng lượng khô (%) | |||
Mẫu 1* | Mẫu 2 | Mẫu 3 | Mẫu 4 | |
Polysaccharides tan trong nước
Triterpennoids Adenosine |
4,610
0,680 0,004 |
13,720
1,030 0,047 |
2,640
0,740 0,010 |
2,950
0,820 0,024 |
Mẫu 1*: Nấm Linh chi mọc tự nhiên thu tại Bắc Giang chủng G.l. HB
Mẫu 2: Nấm Linh chi nuôi trồng từ chủng G.l.HB
Mẫu 3: Nấm Linh chi mọc tự nhiên tại Đà Lạt chủng G.l.DL
Mẫu 3: Nấm Linh chi nuôi trồng từ chủng G.l.DL
Bảng số liệu trên cho thấy hàm lượmg polysaccharides tan trong nước của mẫu nấm Linh chi mọc tự nhiên thu tại Bắc Giang cao hơn nhiều so với mẫu nấm Linh chi thu tại Đà Lạt (khoảng 75%). Hàm lượng triterpennoids của 2 chủng nấm gần như tương đương. Đặc biệt hàm lượng adenosine của mẫu nấm Linh chi tự nhiên thu tại Đà Lạt cao hơn rất nhiều (khoảng 150%) so với nấm Linh chi thu tại Bắc Giang.
Hàm lượng các lớp chất chứa trong thể quả nuôi trồng đều tăng lên rất nhiều so với thể thể quả mọc tự nhiên. Linh chi nuôi trồng với chủng giống gốc G.l.DL, hàm lượng polysaccharides tan trong nước tăng 12%, triterpennoids tăng 11% và adenosine tăng 14% so với Linh chi tự nhiên. Linh chi nuôi trồng với chủng giống gốc G.l.HB, hàm lượng polysaccharides tan trong nước tăng 198%, triterpennoids tăng 51% và adenosine tăng 1075% so với Linh chi tự nhiên.
So sánh thành phần nhóm chất triterpennoids của nấm Linh chi Việt Nam Ganoderma lucidum và Linh chi Hàn Quốc, Đài Loan Ganoderma tsugae bằng sắc ký lỏng (HPLC) cho thấy thành phần hợp chất của triterpennoids của nấm Linh chi Việt Nam phong phú và có rất nhiều các hợp chất khác nhau, trong khi đó Linh chi Hàn Quốc và Đài Loan chỉ có 4 hợp chất chính. Kết quả được thể hiện trên biểu đồ hình 1 và hình 2.
Hình 1: Thành phần các hợp chất trong triterpennoids của linh chi Việt NamGanoderma lucidum chủng G.l.HB
Hình 2: Thành phần các hợp chất trong triterpennoids của Linh chi Hàn Quốc và Đài Loan Ganoderma tsugae
4. Một số ý kiến nhận xét và thảo luận
* Nấm Linh chi là một dược liệu quý, không độc hại và chưa thấy có tác dụng xấu nào. Kỹ thuật nuôi trồng nấm Linh chi cũng không phức tạp, các cơ sở sản xuất, các hộ nông dân đều có thể triển khai nuôi trồng được loài nấm này, mang lại hiệu quả kinh tế cao và chăm sóc sức khoẻ tại chỗ.
* Chất lượng của nấm Linh chi phụ thuộc vào loài và chủng. Chủng nấm Linh chi G.l.HB thu thập từ miền Bắc Việt Namcó hàm lượng polysaccharides cao hơn so với các chủng khác. Nhóm chất này đại diện là ganoderan A,B,C, Beta-D-glucan và D6… có tác dụng hạ đường huyết, chống ung thư, tăng tính miễn dịch, tăng sinh tổng hợp protein.
* Nhóm chất triterpennoids của các chủng nấm Linh chi Việt Nam cao, nhóm chất này đại diện là ganoderic axit, ganodermadiol ganoderic axit T.O, lucidenol … có tác dụng ức chế sinh tổng hợp cholesterol, điều hoà huyết áp và tăng cường chức năng gan. Triterpennoids trong thể quả nấm Linh chi Việt Nam phong phú và còn rất nhiều các hợp chất khác chưa được nghiên cứu, trong khi đó triterpennoids của Linh chi Đài Loan và Hàn Quốc (Ganoderma tsugae) chỉ có 4 nhóm hợp chất chính.
* Nhóm chất adenosine và dẫn xuất có trong thể quả nấm Linh chi mọc tự nhiên thấp. Thông qua nuôi trồng hàm lượng nhóm chất này được cải thiện rõ rệt, trung bình tăng lên 1075%. Tác dụng chính của nhóm chất này là ức chế kết dính tiểu cầu, giảm đau.
* Chất lượng của nấm Linh chi nuôi trồng được cải thiện trên cơ sở bổ sung chất dinh dưỡng và sử dụng giá thể có chứa các chất có hoạt tính sinh học cao. Để tăng khả năng chống ung thư và điều hoà miễn dịch, giá thể nuôi trồng nấm Linh chi được bổ sung mùn cưa cây Long não và đặc biệt là cành, lá hoặc mùn cưa cây Hồng Tùng.
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Chí Hiếu và các CTV, 1993 Tìm hiểu tác dụng lâm sàng của nấm linh chi. Tài liệu tham khảo nội bộ, Tp HCM, 1993.
2. Chang R., 1996 Ganoderma polysaccharides: current concepts and applications. Proc. 94 Inter. Sym. On ganoderma Res., p39-40. Beijing, China, 1994.
3. Chen T.W. et al. 1991 Invitro cytotoxicity of Ganoderma lucidum
4. Đỗ Tất Lợi, Lê Duy Thắng, Trần Văn Luyến1994 Nấm Linh chi, nuôi trồng và sử dụng. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Thành phố HCM, 1994.
5. Gau J.P.,C.K. Lin, S.S. Lee, S.R. Wang,1990 The lack of antiplatelet effect of crude extracts from Ganoderma lucidum on HIV-positive hemophiliacs. Am. J. Chin. Med. 18(3-4), 175-9, 1990.
6. Kim B.K. et al, 1996 Anti-HIV activities of Ganoderma lucidum Proc. 94 Inter. Conf. On Ganoderma Res., Taipei, Tawan, 1996.
7. Lui X. J.,1994 Hepatopathy and uterofunctional Bleeding mainly Treated with Ganoderma lucidum.
Proc. 94 Inter. Sym. On Ganoderma Res., p58-9. Beijing, China, 1994.
8. Phạm Quang Thu, 1994 Nghiên cứu đặc điểm sinh học của nấm lim Ganoderma lucidum ở vùng đông bắc Việt Nam. Luận án PTS, Hà Nội, 1994
9. Tao J. ,Feng K., 1990 Experimental and clinical studies on inhibitory effect of Ganoderma lucidum on platelet aggregation. J. TongjiUniv.10(4),240-3, 1990
10. Wang Chi, Zh. Y. Hua, 1994 A new kind of preparation of Ganoderma lucidum in treating 35 patients with coronary cardiac disease. Proc. 94 Inter. Sym. On Ganoderma Res., p58-9. Beijing, China, 1994.
11. Wang J.F. et al, 1985 Study of the action of Ganoderma lucidum on scavenging hydroxyl radicals from plasma. J. Tradit, Chin. Med. 5(1): 55-60.
Pharmaceutical value and improvement of cultivated Ganoderma species in Viet Nam
Summary:Ganoderma species serves as a valuable pharmaceutical material with outstanding efficiency in treatment of heart and vascular disease, tumors and ageing. Notoxic or bad effected are found with it. The quality of Ganoderma species depends on species and variety. The variety G.I. HB collected in North Viet Namhas polysaccharides content higher than that of other varieties. This group of substances is effective against cancer, improving immunity increasing biological synthesis of protein. Content of the group of triterpennoids in Ganoderma varieties of Viet Namis high, the group of these substances inhibits biological synthesis of cholesterol, regulates blood pressure and enhances the function of liver. Triterpennoids in fruit bodies of ganoderma species in Viet Namare rich with many other compounds that are not yet studied while Ganoderma tsugue of Taiwanand South Koreahas only four main compounds. Quality of cultivated Ganoderma is improved due to supplementation of nutrients and the use of the media containing substances of high biological activity. To enhance the capability of cancer control and immunity regulation,medium for ganoderma cultivation is added with saw dust of Cinnamomum camphora wood and especially branches, leaves or saw dust of Dacrydium pierrei.
*************************************************
Tin mới nhất
- Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp
- Ảnh hưởng của mật độ và phân bón đến năng suất rừng trồng Keo lai 9,5 năm tuổi ở Quảng Trị
- Nghiên cứu đặc điểm đất đai tại khu vực loài Trúc đen (Phyllostachys nigra Munro) phân bố tại Sa Pa, Lào Cai
- Phân tích chỉ số đa dạng sinh học của thực vật thân gỗ trong Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà - Tp. Đà Nẵng
- Nghiên cứu đa dạng di truyền cây Dầu rái (Dipterocarpus alatus Roxb.) bằng kỹ thuật RAPD
Các tin khác
- Phương pháp ứng dụng điều tra lập địa trong công tác trồng rừng và khoanh nuôi tái sinh rừng ở một số dự án Lâm nghiệp quốc tế tại Việt Nam
- Đánh giá mức độ bệnh hại ở các loài và xuất xứ bạch đàn khảo nghiệm ở Đông Nam Bộ
- Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 40 năm xây dựng và trưởng thành (1961-2001)
- Độ màu mỡ của đất rừng và năng suất cây bạch đàn ở miền Nam Tôgô
- Kỹ thuật trồng cây Quế