Bệnh cháy lá, khô ngọn Bạch đàn ở vườn ươm và rừng trồng do nấm Cylindrocldium quinqueseptatum Boedijn & Reitsma

 

Pham Quang Thu

Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam

 

1. Mở đầu:

Gỗ cây Bạch đàn đã được sử dụng vào các mục đích khác nhau như làm bột giấy, dăm xuất khẩu, gỗ xây dựng và gỗ củi…chính vì vậy,trong nhiều năm qua, loài cây này được gây trồng rộng rãi trên khắp cả nước ở quy mô rừng trồng tập trung và cây phân tán. Theo số liệu kiểm kê rừng Việt Nam năm 2001, tính đến tháng 12 năm 1999, thì cả nước ta có 1.471.394 ha rừng trồng trong đó diện tích các loài bạch đàn là 348.001 ha chiếm 23,7 %. Từ cuối những năm 1980, đầu những năm 1990 đến nay dịch bệnh cháy lá, chết ngọn đã xuất hiện trên diện rộng đối với một số rừng trồng Bạch đàn trên cả nước, đặc biệt là vùng Đông Nam Bộ và miền Trung (gồm các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế). Theo kết quả điều tra, đánh giá của các tác giả như: Nguyễn Hoàng Nghĩa năm 1992, Sharma, 1994 và K. Old và Yuan năm 1995 cho thấy diện tích rừng Bạch đàn bị bệnh lên tới 50% tổng diện tích với các mức độ hại khác nhau. Các tác giả đều cảnh báo nguy cơ gây hại lớn của loại dịch bệnh này đối với rừng trồng tập trung, đặc biệt là rừng trồng Bạch đàn trắng xuất xứ Petford. Trước nguy cơ của dịch bệnh, nhiều địa phương đã giảm diện tích trồng rừng Bạch đàn và dần dần đưa cây Bạch đàn ra khỏi danh sách các loài cây trồng rừng. Để giúp cho người trồng rừng và các cơ sở sản xuất nhận biết được bệnh, chọn loại Bạch đàn phù hợp với mỗi loại lập địa và giảm thiểu được ảnh hưởng của bệnh, bài viết này đi sâu vào việc mô tả triệu chứng của bệnh, đặc điểm của bệnh, quá trình phát sinh của bệnh và đưa ra những biện pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của bệnh đối với cây trồng.

 

2. Phương pháp nghiên cứu

Điều tra, thu thập mẫu bệnh được tiến hành trên các khu rừng trồng Bạch đàn trên phạm vi toàn quốc. Thời gian điều tra bắt đầu vào cuối mùa mưa, tập trung vào tháng 9, tháng 10 và tháng 11. Phân lập và nuôi cây nấm bệnh bằng môi trường dinh dưỡng PDA. Giám định nấm bệnh dựa vào chuyên khảo về chi nấm Cylindrocladium của Pedro.W.Crous và Michael J. Wingfield năm 1994.

 

3. Kết quả nghiên cứu

Triệu chứng của bệnh: Các lá bị nhiễm bệnh có các vùng bị biến màu, thường là màu nâu hoặc xám, xung quanh mép của tổ chức bị bệnh thường có vết mờ. Những diện tích này phát triển rộng sau đó ngả màu nâu, lá bị chết và rụng. Có thể nhìn thấy sợi nấm màu trắng và khối bào tử nấm trên lá và chồi bị nhiễm bệnh bằng kính lúp cầm tay. Bệnh có thể phát triển cả tán lá những phần dưới thường bị nhiễm nặng hơn. Bệnh có 3 triệu chứng điển hình như sau: Cháy lá, lúc đầu chỉ một vài điểm của phiến lá ở một số lá sát mặt đất sau lan rộng toàn bộ lá rồi rụng (xem ảnh 1); chết đầu ngọn và đốm đen ở thân cây con sau đó toàn bộ cây bị chết.

 

Đặc điểm của nấm bệnh:

Bào tử vô tính hình trụ không màu, tròn ở hai đầu, kích thước lớn, chiều dài từ 61 đến 101 mm, trung bình 84 mm, chiều rộng từ 5 đếm 7 mm, trung bình 6 mm, bào tử điển hình có 5 vách ngăn (ảnh 2). Nấm này cũng hình thành sợi nấm bất thụ dài có hình chuỳ ở đầu. Trong nuôi cấy nấm này phát triển nhanh hình thành khuẩn lạc màu nâu hay màu ghi với rất nhiều bảo tử.

Từ đặc điểm mô tả ở trên, đối chiếu với chuyên khảo Cylindrocladium nấm gây bệnh cháy lá, khô cành, ngọn Bạch đàn có tên là: Cylindrocladium quinqueseptatum Boedijn & Reitsma, thuộc Ho: Moniliaceae, Bộ Hyphomycetales, lớp: Hyphomycetes, ngành phụ nấm bất toàn: Deuteromycetes.

 

Cây chủ và phân bố: Loài nấm bệnh này phân bố rộng rãi trên thế giới. ở Việt Nam loài nấm này gây hại cho các loài Bạch đàn ở nhiều nơi đặc biệt là ở miền Trung và Đông Nam bộ. Nấm Cylindrocladium quinqueseptatum gây nên bệnh cháy, rụng lá, chết khô ngọn. Loài nấm này gây bệnh đối với nhiều loài cây chủ bao gồm các loài Bạch đàn và Keo. Rừng trồng Bạch đàn trắng E. camaldulensisđặc biệt là xuất xứ Petford bị nhiễm bệnh nặng hơn so với các loài Bạch đàn khác hoặc cùng loài nhưng xuất xứ khác.

Bệnh dịch học: Bệnh xuất hiện những vùng có lượng mưa bình quân năm cao trên 1800 mm, đặc biệt khi khi lượng trung bình của hai tháng liên tiếp lớn hơn 350 mm. Đầu mùa mưa, nấm bệnh xâm nhiễm vào các lá già ở phía dưới của tán lá, dần dần lan lên phía trên, cuối mùa mưa những cây bị bệnh nặng rụng toàn bộ lá hoặc bị chết ngọn. Bệnh lây lan theo đường nước mưa và gió. Nấm qua đông bằng bào tử vách dày hoặc sợi nấm trên các bộ phận bị bệnh ở dưới đất.

ảnh hưởng của bệnh: Nấm gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến các vườn ươm và rừng trồng Bạch đàn ở miền Trung và Đông Nam bộ của nước ta; hàng chục nghìn ha bị nhiễm bệnh, cây sinh trưởng kém. Trường hợp bị nấm bệnh xâm nhiễm qua nhiều năm liên tục làm thân cây dị dạng và chết. Đây là một loại nấm bệnh nguy hiểm nhất đối với bạch đàn ở nước ta.

 

Biện pháp phòng trừ:

+ Vị trí vườn ươm: Vườn ươm nên đặt ở nơi thoát nước, tránh những nơi đã trồng cây nông nghiệp hoặc đã xảy ra dịch bệnh nhiều năm.

+ Sử dụng hạt giống sạch bệnh: Hạt giống phải được thu từ cây mẹ không bị bệnh và phải đựơc chế biến và bảo quản đúng kỹ thuật, tránh để ẩm mốc và tiếp xúc với nguồn bệnh. Cần xử lý hạt giống trước khi gieo ươm: ngâm hạt giống trong nước ấm 500C, dùng một trong các loại hoá chất sau để khử trùng: captan 0.5%, thiram 0.5%, thuốc 0.5% trong thời gian 15 phút hoặc DM-45 nồng độ 1% trong thời gian 30 phút. Có thử dùng tia tử ngoại có bước sóng 260 nm với 6 giờ /ngày. Các biện pháp này nhằm tiêu diệt bào tử nấm bệnh bám trên bề mặt hạt giống.

+ Đất đóng bầu: Dùng đất có thành phần cơ giới nhẹ, tơi xốp, không sử dụng phân chuồng chưa hoai. Đất đóng bầu cần được khử trùng để tiêu diệt nguồn bệnh bằng các loại hoá chất xông hơi methyl bromide hay chloropicrin trước khi đóng bàu. Không sử dụng các bầu cũ cây đã bị chết do bệnh.

+ Chăm sóc cây con: Không được để cây con cớm nắng, thường xuyên làm cỏ, xáo váng mặt bầu cho đất tơi xốp. Các cây con bị nhiễm bệnh phải khẩn trương đưa ra khỏi vườm ươm và tiêu huỷ để tránh lây lan. Các dụng cụ dùng để di rời cây con bị nhiễm bệnh khi đưa trở lại về vườn ươm cần được khử trùng bằng hoá chất. Trong hai tháng đầu mỗi tháng phung phòng 1 lần dùng loại thuốc có phổ rộng như carbendazim 0,1% liều lượng 0,3 lit/m2.

+ Tưới nước: Nguồn nước tưới phải sạch, không dùng nước ao hồ gần vườn ươm đã bị bệnh. Nguồn nước tưới tốt nhất nên dùng nước giếng, nếu không nước phải được xử lý bằng clo hoặc ozon.

+ Phân bón: Phân bón phải được xử dụng hợp lý, không bón phân đạm quá mức vì xẽ làm tăng khả năng bị bệnh cho cây.

+ Mật độ cây con: Cây con không nên đặt quá dày, cần tạo sự thông thoáng, giảm sự tích tụ hơi nước giữa các hàng cây vì bào tử nấm bệnh chỉ nẩy mầm trong điều kiện ẩm độ và nhiệt độ cao.

+ Sử dụng thuốc hoá học: Không phun thuốc hoá học thường xuyên và xử dụng 1 loại thuốc vào vườn ươm khi không có dịch bệnh.

Khi bệnh xuất hiện ở rừng trồng:

Chặt toàn bộ cành lá bị nhiễm bệnh vào đầu mùa mưa, mang ra khỏi rừng trồng và tiêu huỷ. Phun thuốc hoá học để tiêu diệt và tránh lây lan: thuốc hoá học được sử dụng là: zineb 1%, daconil 0.1%, carbendazim 1%. Biện pháp tối ưu hiện nay đang được áp dụng là tuyển chọn loài, xuất xứ, gia đình và dòng có khả năng kháng bệnh. Không nên trồng tập trung với diện tích quá lơn Bạch đàn trắng xuất xứ Petford, trên các vùng có lượng mưa bình quân năm cao trên 1800 mm, đặc biệt có 2 tháng liên tục có lượng mưa bình quân tháng đạt trên 350 mm. Không trồng Bạch đàn uro E. urophylla dòng PN2 tại Đông Nam bộ, hạn chế trồng một số dòng Bạch đàn lai dòng U6 và W5 tại Bình Dương và Bình Phước.

Tin mới nhất

Các tin khác

[logo-slider]