TS. Phạm Quang Thu
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
- Mở đầu:
Các loài bạch đàn được đưa vào gây trồng ở nước ta từ những năm 40, là loài cây sinh trưởng nhanh, thích hợp với nhiều vùng sinh thái và có thể gây trồng với quy mô công nghiệp cung cấp nguyên liệu cho sản xuất bột giấy, mang lại lợi ích kinh tế cao. Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1992, diện tích rừng trồng bạch đàn đạt 428.569 ha chiếm 46,5% diện tích rừng trồng trong cả nước, trong đó bạch đàn trắng Eucalyptus camaldulensis chiếm 79% diện tích của các loài bạch đàn đã gây trồng (theo số liệu của Vụ KHCN và CLSP, Bộ NN và PTNT).
Trong những năm 80 có rất nhiều khu thử nghiệm loài và xuất xứ đối vớicác loài bạch đàn đã được thiết lập ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước và thành phố Hồ Chí Minh và một số vùng thuộc các tỉnh phía Bắc. Từ kết quả của các khu khảo nghiệm này, một số xuất xứ được xem như là rất có triển vọng về khả năng sinh trưởng như: xuất xứ Petford, Kennedy River, Katherine, Morehead River, Gibb River và Gilbert River. Diện tích rừng trồng tập trung với qui mô lớn đối với các xuất xứ này đã tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là xuất xứ Petford chiếm một tỷ trọng lớn.
Từ cuối thập kỷ 80, các diện tích rừng trồng bạch đàn trắng với xuất xứ Petford ở Đông Nam bộ và miền Trung đã xuất hiện một số loại dịch bệnh hại tán lá, hại thân, cành, gây hiện tượng cháy lá, đốm lá, xoăn mép lá và gây rụng lá, trường hợp bị bệnh nặng gây chết ngọn và cành, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cảnh quan và sinh trưởng của cây trồng. Theo số liệu của FAO năm 1994, diện tích rừng trồng bị nhiễm bệnh nặng ở 4 tỉnh; Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Sông Bé và Bình Thuận đã lên tới 11.690 ha.
Trước tình hình dịch bệnh gây hại cho các loài bạch đàn và gây khó khăn, hoang mang cho người trồng rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam hợp tác song phương với Khoa Lâm nghiệp và Lâm sản thuộc Tổ chức Nghiên cứu khoa học, công nghệ Ôxtrâylia (CSIRO) đã tiến hành điều tra, xác định nguyên nhân gây bệnh đánh giá mức độ gây hại trên phạm vi toàn quốc, đưa ra chiến lược quản lý dịch bệnh trên cơ sở chọn lọc các xuất xứ kháng bệnh làm nguồn giống cho công tác trồng rừng ở Việt Nam.
2.Vật liệu và phương pháp nghiên cứu:
-Điều tra, xác định bệnh: Việc điều tra xác định sinh vật gây bệnh được tiến hành với tất cả các loài bạch đàn được gây trồng ở Việt Nam. Thời gian điều tra thường được thực hiện vào cuối mùa mưa, đây là thời kỳ bệnh xuất hiện nặng nhất. Thu thập các mẫu bệnh để lưu trữ, xác định các sinh vật gây bệnh.
-Đánh giá mức độ bị bệnh: Tiêu chuẩn đánh giá dựa vào tình trạng của tán lá và được chia làm 5 cấp:
Mức độ bệnh hại | Chỉ số mức độ bệnh hại | Biểu hiện bên ngoài |
Không bị bệnh | 0 | Cây khoẻ, không bị bệnh |
Thấp | 1 | Tới 25% số lá bị bệnh |
Trung bình | 2 | 26-50% số lá bị bệnh |
Nặng | 3 | 51-75% số lá bị bệnh |
Rất nặng | 4 | >75% số lá bị bệnh |
-Phân tích số liệu và đánh giá kết quả: Số liệu được phân tích dựa trên phần mền DataPlus & Genstat.
3.Kết quả nghiên cứu và thảo luận:
3.1 Tình hình bệnh bạch đàn ở Việt Nam:
Nhiều loài sinh vật gây bệnh cho các loài bạch đàn gây trồng ở các vùng sinh thái khác nhau đã được giám định. Tỷ lệ và mức độ bị bệnh hay loại sinh vật gây bệnh phụ thuộc vào loài cây và vùng sinh thái.Các sinh vật gây bệnh phổ biến được phát hiện gồm các loài nấm và vi khuẩn, trong đó các loài nấm là chủ yếu. Danh mục các sinh vật gây bệnh cho bạch đànở Việt Nam bao gồm:
-Bệnh hại lá: gồm 8 loài sinh vật gây bệnh chính:
+ Cylindrocladium quinqueseptatum
+ Cryptosporiopsis eucalypti
+ Pseudocercospora eucalyptorum
+ Phaeophleospora epicocoides trước đây gọi là Kirramyces epicocoides
+ Phaeophleospora destructans
+ Mycosphaerella marksii.
+ Coniella fragariae
+ Meliola sp.
-Bệnh hại thân cành: gồm 6 loài sinh vật gây bệnh chính:
+ Cryphonectria cubensis
+ Cryphonectria gyrosa
+ Botryosphaeria sp.
+ Coniothyrium zuluence
+ Corticium salmonicolor
+ Ralstonia solanacearum (vi khuẩn gây bệnh héo xanh)
Các tỉnh miền Bắc: Sinh vật gây bệnh thường gặp đối với các loài bạch đàn là nấm Cryptosporiopsis eucalypti, Mycosphaerella marksii, Coniella fragariae, Phaeoseptoria epicocoides, Pestalotiopsis sp., Cryphonectria cubensis, Coniothyrium zuluence và vi khuẩn gây bệnh héo xanh là Ralstonia solanacearum. Tỷ lệ bị bệnh và mức độ bị bệnh nhìn chung ở mức độ nhẹ đến trung bình tuỳ thuộc vào xuất xứ và điều kiện lập địa. Tại Ba Vì, Hà Tây, bạch đàn trắng E. camadulensis xuất xứ Petford có tỷ lệ bị bệnh trên 90%, mức độ bị bệnh trung bình do nấm Cryptosporiopsis eucalypti gây nên bệnh đốm lá và nấm Mycosphaerella marksii. gây bệnh xoăn mép lá, ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây. Bệnh hại thân cành do nấm Cryphonectria cubensis và Coniothyriumzuluence cũng gây hại ở một số tổ hợp bạch đàn lai.Tại Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Giang, Lạng Sơn và Tuyên Quang, sinh vật gây bệnh chính cho các loài bạch đàn vẫn làCryptosporiopsis eucalypti, đặc biệt đối với loài bạch đàn trắng xuất xứ Petford có tỷ lệ và mức độ bị bệnh cao hơn so với các loài và xuất xứ khác. Bệnh xoăn mép lá do nấm Mycosphaerella marksii cũng thường gặp trên các rừng chồi 1 đến 2 tuổi của bạch đàn trắng. Bệnh đốm tím do nấm Phaeoseptoria epicocoides cũng thường gây bệnh với nhiều loại bạch đàn ở các lá già, phần dưới của tán lá, chưa có dấu hiệu ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây đối với các loại bạch đàn. Đối với bạch đàn E. urophylla dòng PN2 sinh trưởng tốt trên các lập địa nhưng trong thời gian 3 năm đầu, dòng này rất mẫn cảm với Ralstonia solanacearum, một loài vi khuẩn gây bệnh héo xanh, với tỷ lệ bị bệnh trung bình từ 8 đến 10%, cá biệt có nơi, tỷ lệ cây chết do bệnh lên tới 30% (ở Phú Thọ, Bắc Giang) và trên 50% (ở Vĩnh Phúc) vào những năm có lượng mưa cao hoặc cây con được trồng trên các lập địa đã qua canh tác các cây nông nghiệp như lạc, sắn. Một vài năm gần đây, bạch đàn lai dòng U6, xuất xứ từ Trung Quốc cũng được đưa vào gây trồng thử nghiệm ở một số nơi thuộc tỉnh Hoà Bình và tỉnh Vĩnh Phúc, bệnh cháy lá do nấm Cylindrocladium quinqueseptatum lần đầu tiên được phát hiện ở vùng có lượng mưa hàng năm dưới 1900 mm. Điều này có thể được giải thích với 2 lý do sau: lượng mưa bình quân hàng năm không cao nhưng nếu lượng mưa bình quân tháng của 1 tháng mùa mưa đạt được trên 350 mm thì rất dễ xuất hiện loài nấm gây bệnh này hoặc dòng U6 rất mẫn cảm với nấmCylindrocladium quinqueseptatum.
Các tỉnh miền Trung: Loài bạch đàn được gây trồng với diện tích lớn là bạch đàn trắng E. camaldulensis. Các loài khác như E. urophylla, E. deglupta cũng được gây trồng với diện tích nhỏ, phân tán. Bệnh cháy lá bạch đàn trắng do nấm Cylindrocladium quinqueseptatum gây hại nghiêm trọng, đặc biệt là các vùng trồng rừng tập trung thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng. Nhiều khu rừng bị nhiễm bệnh nặng, cây sinh trưởng kém, đã phải chặt bỏ và thay thế bằng loài cây trồng khác. Các loài bạch đàn E. urophylla, E. deglupta cũng bị nhiễm bệnh do nấm Cylindrocladium quinqueseptatum nhưng với tỷ lệ và mức độ bị bệnh nhẹ hơn. Các loài nấm gây bệnh khác như: Cryptosporiopsis eucalypti, Pseudocercospora eucalyptorum gây bệnh đốm lá, chết ngọn, cũng thường gặp ở khu rừng chồi của bạch đàn trắng. Các loại nấm gây bệnh thân cành như Botryosphaera sp., Cryphonectria cubensis, Cortitium salmonicolor thường gặp trên các lập địa nghèo chất dinh dưỡng, đất xói mòn mạnh. Khi bị nặng, thân cây từ chỗ nhiễm bệnh lên đến ngọn bị chết, cây mọc chồi ngọn mới, lại bị tái xâm nhiễm vào năm sau và làm thân cây bị biến dạng, cây không còn khả năng sinh trưởng.
Các tỉnh Đông Nam bộ: Loài bạch đàn được gây trồng chủ yếu là bạch đàn trắng E. camaldulensis xuất xứ Petford. Dịch bệnh phát triển mạnh, nhiều khu rừng trồng bị nhiễm bệnh nặng cây sinh trưởng kém, bị rụng lá, chết ngọn. Sinh vật gây bệnh cho bạch đàn ở vùng này rất phong phú, có 3 loài nấm gây bệnh nguy hiểm và có khả năng gây thành dịch là: Cylindrocladium quinqueseptatum, Cryptosporiopsis eucalypti và Pseudocercospora eucalyptorum. Các loài bạch đàn khác như E. terreticornis và E.pellita mức độ bị nhiễm bệnh nhẹ hơn. Một số dòng bạch đàn lai U6 và W5 được gây trồng thử nghiệm ở Bầu Bàng, Bình Dương bị bệnh nặng do nấm Cylindrocladium quinqueseptatum gây hại phần nửa dưới của tán lá và gây ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây.
Các tỉnh Tây Nam bộ: Loài bạch đàn được trồng chủ yếu ở khu vực này cũng là bạch đàn trắng E. camaldulensis xuất xứ Petford. Tình hình bệnh dịch ở đây có tỷ lệ và mức độ bị bệnh từ nhẹ đến trung bình. Sinh vật gây bệnh chủ yếu là Cryptosporiopsis eucalypti với triệu chứng chủ yếu là đốm lá đôi khi chết khô cành, ngọn. Bệnh cháy lá do nấm Cylindrocladium quinqueseptatum cũng xuất hiện ở vườn ươm và rừng trồng tuổi 1 và 2 gây hại một số cành dưới của tán lá.
Các tỉnh Tây nguyên: Thành phần loài bạch đàn được gây trồng ở đây tương đối phong phú, bao gồm E. mycrocoris, E. saligna, E. grandis. E. camaldulensis và E. urophylla. Trong các loài bạch đàn trên, bạch đàn E. camaldulensis xuất xứ Petford bị bệnh nặng do nấm Cryptosporiopsis eucalypti gây nên bệnh đốm lá, khô cành ngọn. Một số sinh vật gây bệnh khác như: Phaeoseptoria epicocoides, Coniella fragariae, Meliola sp. cũng bệnh cho một số loài bạch đàn khác song bệnh không ảnh hưởng nhiều đến sinh trưởng và phát triển của ccác cá thể cây và toàn bộ rừng trồng.
3.2. Quản lý dịch bệnh
Việc quản lý dịch bệnh các loài bạch đàn thông qua việc tuyển chọn các xuất xứ, lô hạt, dòng có tính kháng bệnh, sinh trưởng tốt được trồng trên các khu khảo nghiệm. Đánh giá mức độ bị bệnh được tiến hành trên khu khảo nghiệm xuất xứ được thiết lập ở Chơn Thành, tỉnh Bình Phước năm 1996. Khu thử nghiệm gồm 7 xuất xứ của bạch đàn trắng E. camaldulensis (Fergu River, Katherine, Laura River, Morehead River, Kennedy River, Kennedy Creek và Petford) ở Bắc Queensland và vùng lãnh thổ phía Bắc, có 150 gia đình (lô hạt của các cây đơn lẻ) bao gồm 4800 cây. Mức độ bị bệnh của các cây trong khu thử nghiệm được đánh giá vào tháng 10 hàng năm, chiều cao và đường kính của cây được đo vào tháng 12 trong 2 năm 1997 và 1998. Dựa trên số liệu về sinh trưởng và cấp bệnh, một số lô hạt thuộc các xuất xứ, lô hạt sinh trưởng tốt, kháng bệnh được chọn như sau:
·Cây sinh trưởng tốt, tán lá dày, phát triển cân đối, cây không bị tỉa cành sớm, không có dấu hiệu của bệnh, thể hiện rõ nhất là các lô hạt thuộc các xuất xứ: Kennedy Creek, Laura River và Kennedy River. Xuất xứMorehead River và các xuất xứ khác có dấu hiệu của bệnh ở các mức độ khác nhau.
·Một số sinh vật gây bệnh chủ yếu, ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây trong khu khảo nghiệm đã được phát hiện như: Cryptosporiopsis eucalypti với 2 triệu chứng đốm lá và chết ngọn, Pseudocercospora eucalyptorum gây bệnh đốm vàng và Phaeoseptoria epicocoides gây bệnh đốm tím. Các lô hạt thuộc 4 xuất xứ Kennedy Creek (lô hạt 15827,18275), Laura River (lô hạt 18267), Kennedy River (lô hạt 18242) và Petford (lô hạt 14342-51) đã có khả năng kháng được các bệnh trên và sinh trưởng tốt.
·Để việc chọn giống đạt được kết quả mong muốn 22 gia đình tốt nhất đại diện cho nhiều xuất xứ cần được đưa vào khảo nghiệm và chọn lọc: gia đình số 8, 11, 49 và 51 của xuất xứ Petford; 65,73, 74 và 79 của xuất xứ Kennedy River; 96, 98, 101, 104, 108, 109, 110, 112 và 114 của xuất xứ Laura River; 31 và 32 của Kennedy Creek; 45 của Morehead River và 37, 40 của Fergusson River.
·Xuất xứ Katherine và các lô hạt khác thuộc xuất xứ Petford trong khu thử nghiệm về khả năng sinh trưởng và kháng bệnh kém nhất sau 2 lần đánh giá.
4.Kết luận:
·Dịch bệnh bạch đàn phát triển và lây lan nhanh ở Việt Nam. Sinh vật gây bệnh chủ yếu là nấm và hầu hết các loài nấm này lần đầu tiên được phát hiện ở Việt nam. Cho đến nay đã phát hiện được hơn 10 loài sinh vật gây bệnh khác nhau.
·Các tỉnh phía Bắc do lượng mưa hàng năm thấp hơn vùng Đông Nam Bộ và Miền Trung (Thừa Thiên Huế) nên ít khi phát hiện thấy nấm Cylindrocladium quinqueseptatum gây nên bệnh cháy lá và chết ngọn ngoài 2 trường hợp bạch đàn lai ở vườn ươm tại Ba Vì và rừng trồng bạch lai U6 tại Đại Lải, Vĩnh Phúc. Nấm Cryptosporiopsis eucalypti là sinh vật gây bệnh nguy hiểm, gây nêm bệnh đốm lá, chết ngọn với nhiều loài bạch đàn, đặc biệt là bạch đàn trắng E. camaldulensis.
·Bạch đàn E. urophylla dòng PN2 mẫn cảm với bệnh héo do vi khuẩn Ralstonia solanacearum, đặc biệt trên các lập địa đã canh tác cây nông nghiệp.
·Bạch đàn lai dòng U6, W5 mẫn cảm với bệnh cháy lá do nấm Cylinđroclaium quinqueseptatum ở những vùng có lượng mưa trung bình năm cao từ 1900 mm hoặc lượng mưa bình quân tháng của 1 tháng mùa mưa đạt được trên 350 mm.
·Các Tỉnh miền Trung, Đông Nam bộ 3 loài nấm gây bệnh nguy hiểm, có khả năng gây thành dịch là Cylindrocladium quinqueseptatum, Cryptosporiopsis eucalypti và Pseudocercospora eucalyptorium.
·Các lô hạt thuộc 4 xuất xứ Kennedy Creek (lô hạt 15827,18275), Laura River (lô hạt 18267), Kennedy River (lô hạt 18242) và Petford (lô hạt 14342-51) đã có khả năng kháng được các bệnh đốm lá và chết ngọn do nấm Cryptosporiopsis eucalypti, Pseudocercospora eucalyptorum và sinh trưởng tốt.
Tin mới nhất
- Hội đồng nghiệm thu sản phẩm và tổng kết nhiệm vụ Khoa học Công nghệ cấp tỉnh "Nghiên cứu hoàn thiện kỹ thuật nhân giống và xây dựng mô hình trồng thâm canh Vù hương (Cinnamomum balansae H.Lec) cung cấp gỗ lớn kết hợp lấy tinh dầu tại tỉnh Lào Cai"
- Hội đồng tổng kết nhiệm vụ Khoa học Công nghệ cấp tỉnh: Nghiên cứu trồng rừng thâm canh cây Sồi phảng (Lithocapus fissus Champ. Ex Benth) cung cấp gỗ lớn ở Quảng Ninh
- Hội đồng nghiệm thu tổng kết đề tài KHCN cấp Tỉnh: Nghiên cứu xây dựng mô hình rừng trồng thâm canh Vù hương (Cinnamomum balansae H.Lec) tại tỉnh Bắc Giang
- Hội đồng nghiệm thu tổng kết đề tài KHCN cấp Quốc gia: Nghiên cứu bảo tồn và phát triển nguồn gen cây Bách vàng (Xanthocyparis vietnamensis Parjon &N.T.Hiep) ở một số tỉnh miền núi phía Bắc.
- Hội đồng nghiệm thu tổng kết đề tài KHCN cấp Bộ: Nghiên cứu chọn giống và kỹ thuật trồng rừng thâm canh cây Sấu tía (Sandoricum Indicum Cav) cung cấp gỗ lớn tại các tỉnh phía Nam
Các tin khác
- Lâm sản ngoài ngỗ Việt nam: Vấn đề nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật
- Kết quả trồng thử nghiệm bạch đàn Brazil tại Tân lạc – Hoà bình
- Phân chia lập địa đất cát ven biển
- Nghiên cứu khả năng cải thiện tiểu khí hậu của Sở (Camellia sasanqua Thunb.) trên vùng đất cát ven biển Bình –Trị –Thiên.
- NĂNG SUẤT RỪNG TRỒNG KEO LAI Ở VÙNG ĐÔNG NAM BỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KỸ THUẬT - LẬP ĐỊA CẦN QUAN TÂM