Đặng Văn Thuyết
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
Đối với vùng cát ven biển, do địa hình, địa mạo thay đổi, đất cát khô, rời rạc dễ bị di động do gió thổi và nước chảy kéo cát trôi. Bên cạnh đó chế độ nước của đất cát phụ thuộc vào địa hình vì thế các loài cây cỏ tự nhiên rất nhạy cảm với từng loại đất. Điều đó chứng tỏ rằng lập địa đất cát ven biển có sự thay đổi đáng kể và ảnh hưởng đến sự xuất hiện của cây cỏ và sinh trưởng của cây trồng khi mực nước ngầm nông hay sâu, bị ngập hay không ngập nước mùa mưa, địa hình thoát nước hay đọng nước, đất cát di động hay cố định,… Việc phân chia nhóm, dạng lập địa đất cát trên cơ sở đó giúp lựa chọn loài cây, các biện pháp kỹ thuật phù hợp để canh tác có hiệu quả với từng dạng đất cát ven biển có ý nghĩa rất quan trọng trong việc sử dụng đất.
1. Các căn cứ và tiêu chí phân chia:
Có 4 tiêu chí liên quan trực tiếp tới điều kiện hình thành và quyết định tính sử dụng đất là địa hình địa mạo, chế độ nước, loại đất và thực vật chỉ thị được lựa chọn làm căn cứ phân chia nhóm, dạng lập địa đất cát ven biển:
a.Địa hình địa mạo:
Địa hình địa mạo biểu hiện độ cao, hình thái bề mặt và mức độ ổn định của cát, gồm 3 dạng chính:
* Đụn cát di động (I): Là dạng địa mạo không ổn định, luôn thay đổi vị trí và hình dạng, được hình thành trên nền cát mới khô rời, có hình thái bề mặt phức tạp, tuỳ theo điều kiện hình thành 3 dạng phụ:
(1) Đụn bãi nằm nghiêng: Dốc về biển, phân bố liên tục dọc bờ biển.
(2) Đụn gò lượn sóng: Phân bố thành dải rộng hẹp khác nhau, nơi có gió địa hình chi phối chủ đạo.
(3) Đụn cồn hình muôi úp: Dốc thoải về hướng gió chính và dốc mạnh ở hướng ngược lại, là dạng cát di động mạnh do gió.
* Cồn cát (II):Địa mạo tương đối ổn định, đã cố định hoặc bán cố định nhờ che chắn, bao phủ của lớp thảm cây cỏ hoặc cây trồng có 3 dạng phụ:
(4) Dạng cồn đĩa úp: Thấp, rộng, thoải, thường được cố định bởi cỏ quăn (Fimbristylis), phi lao từ dạng đụn gò lượn sóng.
(5) Dạng cồn bát úp: Cao, hẹp, dốc tương đối đều về các phía hoặc dốc mạnh phía khuất gió chính, thường được cố định bởi cỏ lông chông (Spinifex littirus), cỏ quăn hoặc phi lao từ dạng đụn cồn hình muôi úp.
(6) Dạng cồn đê chắn: Cao trung bình, hẹp nhưng kéo dài, dốc mạnh cả hai phía, thường được cố định bởi cỏ quăn, phi lao.
* Bãi cát cố định (III):Địa mạo khá ổn định. Đó là những trũng cát thấp, khá bằng phẳng, đã cố định nhờ cây cỏ tự nhiên hoặc cây trồng che phủ, có liên quan tới chế độ nước, gồm 4 dạng phụ:
(7) Dạng bãi cát cao, không bao giờ ngập nước, có mực nước ngầm sâu, tương đối rộng và bằng phẳng.
(8) Bãi cát thấp, không ngập, hẹp nhưng dài, hơi gồ ghề và dốc nhẹ. Đây cũng là những đường tụ thuỷ dẫn nước về các bãi cát thấp, ẩm và các suối cát.
(9) Bãi cát thấp, bán ngập, tương đối rộng và bằng phẳng, ngập nước mưa mùa hè ít nhất sau những trận mưa lớn đến 3-4 tháng, được che phủ bởi các loại cỏ ưa ẩm chịu phèn như cỏ rười (Siris compalanata) xen từng đám thanh hao (Baeckea frutscems), mua bà (Melastona dodecandrum).
(10) Bãi cát thấp ẩm ướt tương đối rộng, bằng phẳng, thấp trũng nên thường có nước quanh năm. Đây là nơi chịu ảnh hưởng mạnh của các suối cát.
b. Chế độ nước:
Chế độ nước của đất cát ven biển thể hiện mức độ ngập hay không ngập, mực nước ngầm nông hay sâu. Chế độ nước liên quan đến địa hình, địa mạo vùng cát ven biển.
Đối với dạng đụn, cồn thì không bao giờ ngập nước và nước ngầm ở rất sâu, thường không có cây cỏ che phủ hoặc lác đác có các đám cỏ lông chông, muống biển. Bãi cát cũng có dạng không ngập, có mực nước ngầm ở sâu, được cố định bởi các loại cỏ chịu khô hạn. Dạng bãi cát thấp có chế độ nước ẩm ướt hay bán ngập và ngập thường xuyên liên quan đến mức độ chua của đất và có các loại cỏ chịu ẩm, phèn hoặc cỏ ưa ẩm chỉ thị. Các dạng này ít bị di động bởi gió nhưng là vùng xung yếu gây hại bởi nước chảy tạo thành suối cát.
Nước mặt và nước ngầm thể hiện chế độ nước của đất cát ven biển, được chia ra các mức: (A) không ngập (nước ngầm ở sâu); (B) ẩm ướt mùa mưa; (C) ẩm ướt quanh năm, chua; (D) ẩm ướt quanh năm, ít chua; (Đ) bán ngập mùa mưa; (E) ngập thường xuyên.
Trong 6 dạng trên thì ở vùng cát ven biển Bắc Trung bộ dạng A chiếm diện tích lớn hơn cả và gắn với nạn cát bay. Trong tổng 22.152ha đất tự nhiên ở vùng cát Nam Quảng Bình thì có tới 73,7% thuộc lập địa không ngập, các dạng còn lại chỉ chiếm 26,3%.
c. Loại đất:
Dựa vào điều kiện hình thành, đặc trưng hình thái và kết quả phân tích tính chất của đất, trên vùng cát ven biển Bắc Trung bộ có 11 loại đất chính:
(1) Cát trắng vàng di động sát biển.
Đất có màu trắng hơi vàng, 96 — 99% là cát, chỉ có 2— 2,5% limon và 1 — 2% sét, 0,63% chất hữu cơ và 0,02% đạm tổng số, 0,25 — 0,4% lđl/100g Ca++, Mg++; có phản ứng gần trung tính (pH = 6,8). Loại này có lợi thế về độ phì so với các đất cát khác, do vậy tuy chưa có thực vật định cư ngoài lác đác vài đám rau muống biển nhưng nếu được trồng thì phi lao mọc tốt.
(2) Cát trắng di động ở vùng giữa.
Đất màu trắng hơi vàng không có cây che phủ với 98% là cát, không có hạt sét nên độ rời rạc cao, khả năng giữ nước kém, pH =”4,8-5,0,” mùn < 0,06%, đạm < 0,002%. P2O5 và K2O dễ tiêu, Ca++, Mg++ trao đổi đều giảm so với loại cát di động mới hình thành sát biển. Do vậy đất này không chỉ luôn ở tình trạng bất ổn định nhất mà còn có độ phì kém nhất.
(3) Cát vàng cồn cố định.
Đất màu vàng, lớp phủ thực vật là trảng cây bụi, có nơi mọc thành dạng rú che phủ tới 60-70%, có thành phần cát 86-87%, limon 2-6% và đặc biệt là sét tăng cao 7-11%. Đất hơi chua (pH = 4,0-4,6) nhưng mùn và đạm đều thấp, riêng P2O5 và K2O dễ tiêu, Ca++, Mg++ trao đổi cao hơn các loại đất khác.
(4) Cát trắng xám cồn cố định.
Đất có màu hơi xám, được cố định nhờ cỏ, cây bụi chịu hạn và phi lao trồng. Thành phần chính là cát 96-98% và 1,5 – 2,0% limon, đất chua (pH = 3,8-4,2), mùn và đạm khá hơn đất cồn cát vàng, Ca++,Mg++ trao đổi, P2O5 và K2O dễ tiêu đều thấp. Đất này tuy đã cố định nhưng độ phì vẫn kém.
(5) Cát vàng bãi cố định.
Đất có màu vàng giống đất cồn cát vàng, địa hình khá bằng phẳng, rộng và cao nên không bị ngập và có mực nước ngầm ở sâu. Cũng có đủ 3 thành phần cát 93-94%, limon 4-6% và riêng hạt sét tăng theo chiều sâu từ 0,8 đến 5,6%, có lớp phủ cỏ quăn, một số nơi có trảng truông cây bụi. Đất hơi chua (pH = 4,1-4,4), mùn 0,3-0,6% và đạm đều khá hơn (0,02-0,04%). Ca++, Mg++ trao đổi, P2O5 và K2O dễ tiêu rất thấp. Nhờ khả năng dính kết của cát tăng nên khó bị di động do gió và nước. Nếu giải quyết được chế độ nước và đầu tư thâm canh sẽ nâng cao khả năng sử dụng của đất.
(6) Cát trắng xám, bãi cố định.
Đất có màu trắng xám, bằng phẳng, rộng và cao nên mực nước ngầm sâu. Có rừng phi lao chồi xen cỏ quăn và lác đác cây bụi chịu hạn đôi nơi trồng dưa hấu, lạc, vừng,…
Có khoảng 90-95% cát và gần 5% limon và sét, đất vẫn hơi chua (pH = 4-4,4) và mùn còn khá như bãi cát vàng nhưng đạm, P2O5, K2O tổng số thấp hơn. Ngược lại Ca+2, Mg+2 trao đổi cũng nh P2O5, K2O dễ tiêu thì cao hơn trong khi độ chua thuỷ phân thấp hẳn so với loại trên. Hạn chế chính của loại đất này là thiếu nước, nhất là mùa khô.
(7) Cát xám trắng, bãi cố định.
Đất có màu trắng xám được hình thành do sự tích đọng và bồi tụ cát ở nơi thấp. Thành phần cơ giới chủ yếu là cát (98%) và một ít limon (1,5-2%), đất hơi chua (pH=”4,3-4,9);” mùn, đạm, P2O5, K2O, khả năng hấp phụ đều có hàm lượng đáng kể trừ Ca++ và Mg++. Hơn nữa, có chế độ nước bán ngập và mực nước ngầm nông nên thuận lợi cho canh tác nông nghiệp.
(8) Cát xám trắng, chua, bãi cố định.
Màu đất xám đen trên nền cát mới được bồi tụ do cát bị lấn lấp ở nơi thấp do gió và nước mang lại. Cũng có hơn 98% là cát và 1,4-1,6% limon, đất thường chua, có nơi ít chua (pH = 4,5-5,1), mùn, đạm, P2O5, K2O tuy không cao nhưng thuộc loại khá, dung tích hấp thụ cao ở tầng mặt (3,6 lđl/100g). Lợi thế chính của đất này là luôn ẩm có nơi bị ngập nên có thể làm bãi chăn thả hoặc cải tạo để canh tác nông nghiệp. Một số nơi đã trồng phi lao nhưng không lên líp nên cây thường bị chết do ngập nước.
(9) Cát trắng xám ít chua, bãi cố định.
Đất có màu xám trắng hình thành trên nền cát mới ở các bãi cát thấp của hệ thống các suối trước khi chảy ra biển bị bồi lấp do nước đưa cát trở lại biển. Mùa mưa chỉ bị ngập tạm thời, mùa khô vẫn có nước rỉ ngầm nên luôn ẩm và thường được lên luống trồng khoai lang. Đất vẫn có 95-97% cát, 3,0-4,0% limon và sét, ít chua hơn (pH= 5,0-5,2), mùn, đạm, P2O5, K2O cũng khá, Ca++ và Mg++ khá nhất (0,2-0,6 lđl/100g) và độ chua thuỷ phân thấp nên thuận cho trồng cây nông nghiệp hơn.
(10) Bãi cát trắng xám, thấp bán ngập, gần trung tính.
Đất gần trung tính, pH = 6,5-6,8, mùn chiếm khá cao 0,4%, P2O5 = 0,4mg/100g, K2O = 1,8mg/100g, dạng này dùng để trồng khoai lang, đỗ, lạc hoặc các loại rau màu 1 vụ.
(11) Bãi cát trắng xám, ngập nước quanh năm, ít chua đến trung tính.
Đất thuộc loại ít chua đến trung tính, pH = 5,5-7,0, mùn chiếm khá cao 0,5%, P2O5 = 0,5mg/100g, K2O = 1,8mg/100g. Loại đất này còn để hoang hoá nhiều, một số là các bàu – nơi dự trữ nước ngọt.
Tóm lại:Mặc dù đất cát ven biển đều có trên 90% là cát và nghèo xấu nhưng mỗi dạng đất đai, lập địa có những biến động độ phì khác nhau, đó chính là cơ sở để đưa ra hệ thống biện pháp trồng rừng và sử dụng đất phù hợp.
d. Thực vật chỉ thị:
Có hơn 60 loài cây cỏ thường gặp ở vùng cát ven biển Bắc Trung bộ. Đối với vùng cát ven biển, thực vật rất nhạy cảm với đất đai lập địa. Các dạng lập địa khác nhau bởi địa hình địa mạo, loại đất, chế độ nước thì có những nhóm loài thực vật chủ yếu mọc tự nhiên chỉ thị cho dạng lập địa đó. Vì vậy, dựa vào nhóm loài cây cỏ ưu thế xác định được dạng lập địa tương ứng. Chúng được phân chia thành 8 dạng:
(a) Không cỏ cây:
Thường gặp ở các đụn, cồn cát cao ở vùng ngoài và vùng giữa bị di động mạnh do gió và hầu như chưa có thực vật định cư. Dạng này có tới 3.944ha, chiếm 14,2% diện tích vùng cát Nam Quảng Bình. (Hình 1)
(b) Cỏ lông chông, muống biển, bạc trôốc (bạc đầu):
Các loại cỏ này chủ yếu mọc trên các cồn cát mới hình thành ở sát biển. (Hình 2)
(c) Cỏ chịu khô hạn: Gồm các loại cỏ quăn đỏ, cỏ quăn trắng, cỏ lá,… (Hình 3) mọc ở các bãi cát cao, không bao giờ ngập nước, có mực nước ngầm sâu, tương đối rộng và bằng phẳng. Phi lao trồng trên dạng lập địa có các loại cỏ chỉ thị này thường sinh trưởng và phát triển kém.
(d) Cỏ chịu ẩm, phèn:Loại này chiếm diệntích rất lớn, có nơi gần như thuần cỏ rười cao 50-70cm mọc dày đặc (Hình 4), có chỗ xen mua bà, thanh hao phân bố chủ yếu ở vùng ngoài. Sinh khối tươi cỏ rười đạt 50 tấn/ha trong đó phần trên mặt đất 13-25 tấn/ha và phần dưới mặt đất đạt 25-37 tấn/ha.
(e)Cỏ ưa ẩm:Có ống, cỏ gấu,… mọc ở các bãi cát bằng cao nhưng đủ ẩm, không bị ngập nước.
(f) Cây bụi chịu ẩm, phèn: Gồm mua bà (Hình 5), thanh hao (Hình 6), tràm bụi,… mọc rải rác ở bãi cát ẩm ướt quanh năm, đất thường chua, phèn.
Gồm quýt dại, mẫu đơn, găng, dó niệt,… thường mọc trên các cồn cát bán cố định, có mực nước ngầm sâu, gặp khá nhiều ở vùng cát Nam Quảng Bình.
(h)Trảng, truông, rú: Trâm, tràm lùn, hoa dẻ, chạc trìu,… là những loài cây chỉ thị ở những bãi cát vàng cao cố định, gặp ở Vĩnh Linh – Quảng Trị và Sen Thuỷ – Lệ Thuỷ – Quảng Bình,…
2. Các dạng lập địa đất cát ven biển:
Tổng hợp các nhóm và dạng lập địa phân chia theo các tiêu chí đã lựa chọn, cho thấy:
Xét về mặt phòng hộ, các dạng đất đai lập địa chịu ảnh hưởng trực tiếp của 2 chế độ nước cực đoan: Các đụn, cồn bãi cao có mực nước ngầm sâu dễ bị nguy cơ gió hại liên quan đến nạn cát bay và các thung, bãi thấp bán ngập hoặc ngập nước dễ bị nguy cơ thuỷ hại liên quan đến nạn cát chảy. Đây cũng là những căn cứ để phân chia phân vùng phòng hộ cũng như quy hoạch trồng rừng phòng hộ lâu dài và bền vững cho khu vực.
Toàn vùng có 3 nhóm lập địa I, II và III với 21 dạng lập địa. Hai nhóm đầu là đụn cát di động và cồn cát cố định chỉ có 8 dạng lập địa nhưng gần như không bao giờ ngập nước mặt, lại có mực nước ngầm sâu nên rất khó khăn cho sản xuất. Nhóm lập địa còn lại là bãi cát cố định có đến 13 dạng lập địa, có chế độ nước thuận lợi hơn, nhưng cũng có một số dạng không ngập (IIIA5c, IIIA6c,…) và một số dạng nhiều khi bị ngập úng như dạng lập địa IIID9đ, IIIĐ10đ, IIIC8đ. Tuy nhiên, đây là nhóm dạng lập địa có quỹ đất cho sản xuất nông nghiệp thuận lợi hơn, đặc biệt là dạng IIID9đ.
Biểu 1: Dạng lập địa đất cát ven biển.
Địa hình, địa mạo |
Chế độ nước |
Loại đất |
Thực vật chỉ thị |
|||||||
Không có cây |
Cỏ lông chông |
Cỏ chịu khô |
Cỏ chịu ẩm |
Cỏ a ẩm |
Bụi chịu ẩm |
Bụi chịu khô |
Trảng truông rú |
|||
A |
b |
c |
d |
đ |
e |
g |
h |
|||
I. Đụn cát di động |
A. Không ngập |
1. Cát trắng vàng
sát biển |
– |
IA1b |
– |
– |
– |
– |
– |
– |
A. Không ngập |
2. Cát trắng vùng
giữa |
IA2a |
– |
– |
– |
– |
– |
– |
– |
|
II. Cồn cát cố định |
A. Không ngập | 3. Cát vàng |
– |
– |
IIA3c |
– |
– |
– |
IIA3g |
IIA3h |
A. Không ngập | 4. Cát trắng xám |
– |
– |
IIA4c |
– |
– |
– |
IIA4g |
IIA4h |
|
III. Bãi cát cố định |
A. Không ngập | 5. Cát vàng |
– |
– |
IIIA5c |
– |
– |
– |
IIIA5g |
– |
A. Không ngập | 6. Cát trắng xám |
– |
– |
IIIA6c |
– |
– |
– |
IIIA6g |
IIIA6h |
|
B. ẩm ướt mùa
mưa |
7. Cát xám trắng,
chua |
– |
– |
– |
IIIB7d |
– |
– |
– |
– |
|
C. ẩm ướt quanh
năm, chua |
8. Cát trắng xám,
chua |
– |
– |
– |
– |
IIIC8đ |
IIIC8e |
– |
– |
|
D. ẩm ướt quanh
năm, ít chua |
9. Cát xám trắng,
ít chua |
– |
– |
– |
– |
IIID9đ |
– |
– |
– |
|
Đ. Bán ngập | 10. Cát trắng xám gần trung tính |
– |
– |
– |
– |
IĐ10đ |
– |
– |
– |
|
E. Ngập quanh năm | 11. Cát trắng xám ít chua đến trung tính (bàu, hồ) | IIIe11a |
– |
– |
– |
IIIE11đ |
IIIE11e |
– |
– |
Với những đặc trưng đó, hướng sử dụng chính của nhóm I và II chủ yếu cho trồng rừng phòng hộ có kết hợp sản xuất nông nghiệp, còn nhóm III chủ yếu dành cho sản xuất nông nghiệp có kết hợp với phòng hộ là phù hợp hơn.
3. Kết luận:
Vùng cát ven biển Bắc Trung bộ có 3 nhóm với 21 dạng lập địa. Nhóm I (Cồn cát di động, không cây cỏ) và nhóm II (Cồn cát cố định, cỏ, cây bụi chịu khô) có 8 dạng lập địa với mực nước ngầm sâu, rất khó khăn cho sản xuất. Nhóm III là bãi cát cố định gồm 13 dạng lập địa với cỏ, cây bụi chịu ẩm đến ưa ẩm, có chế độ nước thuận lợi hơn, là quỹ đất lớn cho sản xuất nông nghiệp.
Tài liệu tham khảo
Đào Công Khanh, Đặng Văn Thuyết,… (1997). Báo cáo nghiên cứu khả thi: Khảo sát và quy hoạch trồng rừng vùng cát NamQuảng Bình, Dự án ARCD Quảng Bình.
Summary
Based on topography, morphology, water regime, soil type and plant indicators, the coastal sandy region of North Central Vietnam is classified into 3 site groups with 21 types. Group I (shifting sand dunes) and group II (fixed sand dunes) have 8 site types without water logging, deep water tables, difficult for production. Group III is fixed sandy area with 13 site types, water regime is more favourable, some site types are without water-logging (IIIA5c, IIIA6c), and some types are water-logged such as IIID9d, IIID,IIIC8d. This is a group of site types more favourable for agricultural production. Thus the use of group I and II is mainly directed to protection forest establishment, group III is mainly for agricultural production combined with environment protection.
Tin mới nhất
- Hội đồng nghiệm thu sản phẩm và tổng kết nhiệm vụ Khoa học Công nghệ cấp tỉnh "Nghiên cứu hoàn thiện kỹ thuật nhân giống và xây dựng mô hình trồng thâm canh Vù hương (Cinnamomum balansae H.Lec) cung cấp gỗ lớn kết hợp lấy tinh dầu tại tỉnh Lào Cai"
- Hội đồng tổng kết nhiệm vụ Khoa học Công nghệ cấp tỉnh: Nghiên cứu trồng rừng thâm canh cây Sồi phảng (Lithocapus fissus Champ. Ex Benth) cung cấp gỗ lớn ở Quảng Ninh
- Hội đồng nghiệm thu tổng kết đề tài KHCN cấp Tỉnh: Nghiên cứu xây dựng mô hình rừng trồng thâm canh Vù hương (Cinnamomum balansae H.Lec) tại tỉnh Bắc Giang
- Hội đồng nghiệm thu tổng kết đề tài KHCN cấp Quốc gia: Nghiên cứu bảo tồn và phát triển nguồn gen cây Bách vàng (Xanthocyparis vietnamensis Parjon &N.T.Hiep) ở một số tỉnh miền núi phía Bắc.
- Hội đồng nghiệm thu tổng kết đề tài KHCN cấp Bộ: Nghiên cứu chọn giống và kỹ thuật trồng rừng thâm canh cây Sấu tía (Sandoricum Indicum Cav) cung cấp gỗ lớn tại các tỉnh phía Nam
Các tin khác
- Nghiên cứu khả năng cải thiện tiểu khí hậu của Sở (Camellia sasanqua Thunb.) trên vùng đất cát ven biển Bình –Trị –Thiên.
- NĂNG SUẤT RỪNG TRỒNG KEO LAI Ở VÙNG ĐÔNG NAM BỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KỸ THUẬT - LẬP ĐỊA CẦN QUAN TÂM
- Phân vùng phòng hộ vùng cát ven biển bắc trung bộ
- Kết quả nghiên cứu vai trò của giới trong việc thu hái và sử dụng gỗ củi ở xã khang ninh – vùng đệm vườn quốc gia ba bể
- Thị trường lâm sản rừng trồng sản xuất ở các tỉnh miền núi phía Bắc và các chính sách để phát triển