TS.Nguyễn Hoàng Nghĩa
1. Mở đầu.
Cây rừng tự nhiên vùng nhiệt đới có những đặc điểm riêng rất khác biệt so với các loại rừng khác mà những đặc điểm này đòi hỏi công tác bảo tồn nguồn gen cây rừng nhiệt đới phải áp dụng những biện pháp xử lý lâm sinh hợp lý.
Cây gỗ rừng nhiệt đới đã thích nghi với hoàn cảnh sống đa dạng và hoàn hảo của hệ sinh thái rừng nhiệt đới bao gồm đủ loại động vật và thực vật, với những hoạt động chức năng khác nhau song hỗ trợ cho nhau như trong một dây chuyền thức ăn đồng bộ mà nếu tách rời khỏi hệ sinh thái đó, cây rừng sẽ khó có thể sống độc lập được. Mặt khác, các loài động vật cũng sẽ gặp phải khó khăn khôn lường nếu như các loài thực vật đứng trước nguy cơ bị đe doạ. Bên cạnh các loài cây có giá trị cao theo đánh giá của con người dựa vào nhu cầu sử dụng thì còn vô số loài cây có giá trị thấp nhưng chúng lại có chức năng hỗ trợ sự sống không thể thiếu được như các loài sung, vả, đa và các loài Ficus, các loài cây cho quả khác, là nguồn cung cấp thức ăn quan trọng cho các loài động vật, các thành viên của các hệ sinh thái.
Rừng nhiệt đới có số loài khá phong phú song mỗi loài lại có rất ít cây cá thể trên một đơn vị diện tích và hiếm tìm thấy loài cây sống trong những quần thụ thuần loại. Đây là một khó khăn không dễ gì khắc phục của công tác bảo tồn, đặc biệt là bảo tồn in situ. Khó thu hái đủ giống từ một nền tảng di truyền cao (từ nhiều cây mẹ cách xa nhau), nhiều khả năng thu được hạt giống có nguồn gốc lai gần, cạnh tranh khốc liệt giữa các cây bên trong các quần thụ có thể gây hại cho các cây có mục đích bảo tồn, tái sinh tự nhiên của cây mục đích dưới tán rừng kín rậm thường kém, hệ sinh thái thường đã ít nhiều bị tác động hoặc bị chia cắt, phá hoại mạnh v.v. Đó là những vấn đề lâm sinh đặc biệt đòi hỏi phải có những biện pháp khắc phục thực sự có hiệu quả trong quá trình xây dựng phương án và triển khai bảo tồn cho một loài cây nhất định.
2. một số vấn đề lâm sinh cụ thể.
2.1. Tái sinh tự nhiên.
Các loài cây rừng tự nhiên có khả năng tái sinh mạnh và có thể tạo thành các quần thụ gần như thuần loại như 400 ha rừng tái sinh căm xe (Xylia xylocarpa) ở Ninh Hoà, Khánh Hoà; hàng trăm ha rừng giáng hương (Pterocarpus macrocarpus) tái sinh sau nương rẫy ở Tương Dương và Kỳ Sơn, Nghệ An; hàng chục ha rừng trắc nghệ (Dalbergia cochinchinensis) ở Tánh Linh, Bình Thuận; các láng sao (Hopea odorata) và dầu nước (Dipterocarpus alatus) ở vùng Đông Nam Bộ. Đối với các loài cây này, chỉ cần quy hoạch riêng một khu vực đủ lớn và có các biện pháp bảo vệ tốt thì công việc bảo tồn không phải là vấn đề gay cấn.
Song hầu hết cây rừng tự nhiên lại có số lượng cây tái sinh không cao do các điều kiện không phù hợp như mức độ che bóng lớn, cạnh tranh giữa các loài và giữa các cây cá thể khá mạnh. Có thể dễ dàng nhận thấy thực tế này ở một số loài cây lá kim quý hiếm ở nước ta.
Thông hai lá dẹt (Pinus krempfii) có phân bố chủ yếu ở các vùng như Cổng Trời (độ cao trên dưới 1800 m), Bidoup (độ cao 1600 – 2000 m) và chúng được thấy như các cây đại thụ mọc rải rác trong rừng lá rộng thường xanh. Cây cao trên dưới 30 m và có đường kính ngang ngực đạt 1,5 – 1,6 m, cá biệt có cây đạt 2 m (ước tính đạt tới 1000 năm tuổi). Trong quá trình khảo sát, có thể phát hiện thấy nhiều cây mầm tái sinh dưới tán rừng rậm rạp ở Cổng Trời song chúng không tồn tại quá 5-6 năm trong điều kiện như vậy. Có thể gặp nhiều cây mầm tái sinh trong các khoảng trống hoặc bên cạnh đường mới mở trong rừng rậm. Cây tái sinh thường gặp nhất ở độ tuổi 1 – 5 mà hiếm thấy những cây có đường kính từ 10 đến 20 cm, chứng tỏ chúng thiếu các thế hệ trung gian. Do sinh trưởng chậm, đời sống kéo dài tới hàng trăm năm và điều kiện sống trước đây hầu như không thay đổi nên các cây thông hai lá dẹt đã theo nhau tồn tại. Ngày nay, rừng đang ngày bị thu hẹp, bị tàn phá, số lượng cây cá thể bị giảm nghiêm trọng trong khi số lượng cây tái sinh rất thiếu, nên việc duy trì các rừng thông hai lá dẹt tồn tại lâu dài trong trạng thái rừng tự nhiên có diện tích hẹp và bị chia cắt, với tổ thành loài cây ổn định như hiện nay đang còn là câu hỏi lớn đối với các nhà nghiên cứu.
Tình trạng tương tự cũng đang xảy ra với loài thông năm lá Đà Lạt (Pinus dalatensis). Còn thuỷ tùng (Glyptostrobus pensilis) và thông Pà Cò (Pinus kwangtungensis) lại ở trong tình trạng khác hẳn. Hai quần thụ thuỷ tùng cuối cùng còn lại ở Trấp Ksor và Ea H’Leo (Đắc Lắc) đều chỉ cho hạt bất thụ mà hiện nay chưa rõ lý do và vì vậy không tìm thấy cây tái sinh bằng hạt. Quần thụ vài chục cây thông Pà Cò sống trong hoàn cảnh đặc biệt khắc nghiệt trên đỉnh núi đá vôi Hoà Bình cũng đã không thấy cây tái sinh và vì vậy đã đẩy chúng đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Tái sinh là biện pháp duy nhất để cây rừng tồn tại trong tự nhiên. Tái sinh tự nhiên kém hoặc môi trường liên tục bị tàn phá làm tổn hại đến cây tái sinh là một trong những nguyên nhân đẩy loài cây vào tình trạng bị đe doạ như hiện nay. Do có đời sống dài ngày nên các cây có thể tồn tại như những cây trưởng thành hoặc các quần thể trưởng thành song không có tái sinh. Bề ngoài tưởng chừng như quần thể vẫn sống song thực chất chúng đang đi đến bước diệt vong.
2.2. Cạnh tranh.
Sến mật (Madhuca paquieri) là một trong số 4 loài tứ thiết nổi tiếng, hiện đang được quy hoạch bảo tồn tại Khu bảo tồn sến mật Tam Quy (Hà Trung, Thanh Hoá). Trên diện tích 350 ha của khu bảo tồn thì có tới 178 ha rừng sến mật gần như thuần loại đang được bảo vệ nghiêm ngặt. Nhưng đối với cây sến mật ở đây thì khó khăn lớn nhất lại chính là một số vấn đề cần giải quyết về mặt lâm sinh, cụ thể là vấn đề cạnh tranh. Tại khu rừng sến Tam Quy, ngoài sến mật là loài cây chính còn có thể gặp một số loài cây khác, với tỷ lệ thấp mà đáng lưu ý nhất chính là lim xanh (Erythrophloeum fordii Oliv.). Lim xanh sinh trưởng rất mạnh, tái sinh tự nhiên dễ và nhiều, tán cây rộng và rậm, lấn át các cây sến mật xung quanh và vượt lên che át cả tán sến. Chính sự có mặt và phát triển mạnh mẽ của lim xanh đã làm cho nhiều cây sến phải cong thân vươn ra ngoài tán lim để tìm cách tồn tại. Ngoài ra, nhiều cây sến bất lực đã bị tàn tạ hoặc chết khô dưới tán lim. Rõ ràng là ở khu rừng này, đang có xu thế nguy hiểm là lim xanh lấn át và dần chiếm cứ khu phân bố tự nhiên của sến. Vì vậy nếu đặt mục tiêu là bảo vệ nguyên vẹn rừng sến và bảo tồn nguồn gen sến mật, thì các biện pháp lâm sinh đồng bộ cần phải được triển khai thực hiện ngay để ngăn chặn hoặc loại bỏ cạnh tranh, trong đó trước mắt cần chặt tỉa bỏ những cây lim xanh có ảnh hưởng xấu đến rừng sến, trồng tra dặm sến con vào các khoảng trống hoặc tổ chức trồng mới lại ở những nơi có tỷ lệ cây sến thấp hoặc đất trống không có sến.
Điều này rõ ràng không chỉ xảy ra với cây sến mà chắc chắn còn gặp ở nhiều loài cây đang được bảo tồn khác, đặc biệt là các loài cây nằm trong khu bảo vệ nghiêm ngặt của các vườn quốc gia khi mà duy trì nguyên trạng là mục tiêu chủ yếu và không thể áp dụng bất kỳ biện pháp lâm sinh nào. Sự tồn tại của loài bây giờ hoàn toàn phụ thuộc vào sự tiến hoá của quần thụ rừng trên cơ sở của tái sinh, cạnh tranh và các yếu tố khác. Như vậy cũng có nghĩa là trong tương lai có thể loài cây mục đích đó bị thải loại và không còn tồn tại trong quá trình tiến hoá tự nhiên.
2.3. Kích thước quần thể nhỏ.
Theo các tài liệu ở Hoa Kỳ thì bất cứ quần thể nào có số lượng cá thể giảm xuống dưới 1000 con (với động vật) và 100 cây (với thực vật) thì quần thể đó được coi là bị đe doạ. Quần thể nhỏ sẽ bị ảnh hưởng mạnh bởi sự tích tụ các đột biến gây hại và đánh mất dần tiềm năng thích nghi – cơ sở của tiến hoá tự nhiên, mà nguyên nhân chính vẫn là mất mát biến dị di truyền.
Thông thường các loài hiếm lại có mặt trong các quần thể nhỏ và nguồn gen đang ngày càng bị suy giảm mạnh. Có thể kể ra ở đây loài thuỷ tùng với 32 cây cá thể ở khu Trấp Ksor và gần 200 cây tàn tạ ở Ea H’Leo (Đắc Lắc). Có nhiều lý do như cây già cỗi, sức sinh trường của cây kém, môi trường bị phá huỷ mạnh, mật độ quá thưa thớt v.v. mà hai quần thụ cuối cùng này đã không tạo được hạt hữu thụ và cây tái sinh từ hạt. Thông Pà Cò chỉ còn gặp ở Pà Cò (Hoà Bình), Trùng Khánh và Trà Lĩnh (Cao Bằng) với tổng số cây cá thể không quá 100 cây. Thông đỏ Trung Quốc (Taxus chinensis) có phân bố rất thưa thớt với số cây cá thể rất ít, chỉ còn thấy 5 cây ở Pà Cò và một số cây ở dãy Hoàng Liên. Thông đỏ Himalaya (Taxus wallichiana) cũng chỉ thấy quanh Đà Lạt với tổng số dưới 100 cây cá thể, có quần thụ chỉ có 2 – 4 cây, cao nhất cũng chỉ có trên 20 cây. Điều đáng lưu ý ở các loài thông đỏ là có cây đực và cây cái riêng biệt, nên việc tạo được một lượng hạt hữu thụ cho tái sinh cũng là một khó khăn không dễ vượt qua.
Vùng đất cát dọc bờ biển có vai trò phòng hộ và cảnh quan rất có ý nghĩa đối với cuộc sống của người dân nước ta. Trước đây trong hệ sinh thái vùng cát ven biển, có một số loài cây họ Dầu đã từng là cấu thành chủ yếu song bị khai thác đến suy kiệt hoặc đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Bốn loài cây họ Dầu đặc biệt có ý nghĩa của hệ sinh thái này là dầu cát (D. caudatus spp. caudatus), sến cát (Shorea roxburghii), chai lá cong (Shorea falcata) và sao lá hình tim (Hopea cordata). Cây dầu cát hiện tìm thấy dọc theo bờ biển như tại Hàm Minh, Hàm Thuận Nam tới thị trấn Lagi, Hàm Tân (Bình Thuận), hoặc phân bố như những cây cá thể hoặc từng đám rừng nhỏ kéo dọc theo đường từ Hàm Tân đi về phía Nam và ở rừng cấm Bình Châu – Phước Bửu (Bà Rịa – Vũng Tàu). Trên đất cát, sến cát chỉ thấy mọc tự nhiên ở rừng cấm Takou (Bình Thuận).
Trước 1965, chai lá cong (hoặc sưng cát) mọc hầu như thuần loại trên cát trắng cùng với sao lá hình tim và các loài họ Đậu. Từ sau 1965, rừng sưng cát bị chặt phá không thương tiếc, nay số lượng cây cá thể đã giảm xuống mức độ rất nguy cấp chỉ còn tìm thấy 6 cây nguyên vẹn tại Cam Ranh, Khánh Hoà và 6 cây ở Sông Cầu, Phú Yên. Chỉ có 6 cây sưng cát ở Phú Yên là đang cho quả còn 6 cây ở Cam Ranh từ nhiều năm nay đã không thấy quả nữa. Sao lá hình tim (sưng đắng) cũng chỉ còn lại dưới 100 cây tái sinh chồi lẻ tẻ ở Cam Ranh, Khánh Hoà và vẫn đang hàng ngày bị chặt làm củi. Cả hai loài cây này đều có tên trong Sách đỏ Việt Nam.
2.4. Sự toàn vẹn của hệ sinh thái.
Trong mỗi một hệ sinh thái, một môi trường sống đều tồn tại một tập hợp các loài động vật và thực vật cùng chung sống và gắn bó với nhau trong một dây chuyền thức ăn. Dây chuyền thức ăn thường được biểu hiện bằng một kim tự tháp mà đáy của nó là do cả thế giới thực vật phong phú tạo thành và đỉnh là vị trí của các loài ăn thịt. Xét về mặt sinh khối, thực vật chiếm phần lớn nhất còn phần lớn thứ hai thuộc về phần phân huỷ trong quá trình sống bao gồm từ vi sinh vật, nấm đến mối làm nhiệm vụ tiêu huỷ phần sản phẩm thừa và cung cấp trở lại thức ăn cho thực vật. Đỉnh của kim tự tháp là các loài ăn thịt, chúng có số lượng hạn chế và khi hệ sinh thái bị đe doạ thì chúng là những sinh vật bị đe doạ đâù tiên.
Mất một loài trong dây chuyền thức ăn sẽ làm tăng con số của một loài thay thế khác và dây chuyền bị mất cân bằng, còn mất nhiều loài sẽ làm cho toàn bộ hệ sinh thái biến đổi, suy giảm và tàn kiệt. Sự mất đi của một loài thực vật thường kéo theo sự đe doạ của 10 đến 30 loài sinh vật khác. Các loài thực vật không có giá trị kinh tế đối với con người thường không được quan tâm, thậm chí là đối tượng bị chặt bỏ trong các xử lý lâm sinh, trong quá trình tỉa thưa, làm giàu rừng, chặt vệ sinh rừng v.v. nhưng đôi khi một số loài trong số chúng lại có vai trò đặc biệt hữu ích hoặc không thể thiếu đối với toàn bộ hệ sinh thái mà người ta thường gọi chúng là các loài cây hỗ trợ sự sống. Mất chúng thì cả hệ sinh thái sẽ dần bị sụp đổ.
Vùng đất cát, bãi cát và cồn cát ven biển là một môi trường sống khắc nghiệt, khó tìm thấy loài cây nào ngoài phi lao có khả năng thích nghi tốt như bốn loài cây họ Dầu đã từng có mặt ở đó (dầu cát, sến cát, chai lá cong, sao lá hình tim). Các loài trên có thể được coi là một nguồn gen vô cùng quý giá mà không phải lúc nào, nơi nào và ở chi thực vật nào cũng có thể tìm thấy. Việc bảo vệ và phát triển bốn loài họ Dầu trên các lập địa cát ven biển là rất có ý nghĩa và đáng được đầu tư, đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay khi chúng vẫn đang tiếp tục bị khai thác, nhu cầu trồng rừng trên đất cát rất lớn và nhu cầu đa dạng hoá loài cây trên đất cát đang trở nên cấp bách.
Những kết quả điều tra gần đây về một số loài động vật đã cảnh báo nguy cơ đe doạ đối với nhiều loài động vật kích thước lớn ở nước ta. Bò xám đã không còn tìm thấy ở Việt Nam. Tê giác một sừng hiện chỉ còn 5 – 7 con trong một đàn duy nhất ở Cát Lộc. Hổ Đông Dương cũng chỉ còn trên dưới 100 con và đàn voi cũng đã giảm xuống tới mức độ báo động. Phá rừng, phá hoại môi trường sống và khai thác quá mức là những nguyên nhân chính gây nên tình trạng nghiêm trọng như hiện nay.
3. Kết luận.
Người ta thường coi hình tượng bảo tồn như một tảng băng trôi mà phần nổi trên mặt nước mới chỉ lưu giữ được một phần nhỏ đa dạng di truyền là bảo tồn ex situ; phần nằm ngay dưới mặt nước có khả năng lưu giữ nhiều hơn đó là bảo tồn in situ tại các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên; còn phần lớn nhất, phần chìm sâu trong nước, đó là quy hoạch bảo tồn trong kế hoạch tổng thể của quản lý rừng tự nhiên, bao gồm cả công tác bảo tồn ở rừng sản xuất.
Quản lý rừng bền vững bao gồm các biện pháp khai thác và bảo vệ hợp lý, kết hợp với các biện pháp bảo tồn thích hợp chính là con đường đi cần thiết của nước ta hiện nay. Bảo tồn đòi hỏi áp dụng các biện pháp xử lý lâm sinh phù hợp và quản lý rừng đòi hỏi áp dụng các biện pháp bảo tồn đồng bộ, có như vậy mới đạt được mục tiêu “bảo tồn để phát triển và phát triển để bảo tồn”.
Some silvicultural problems in the in-situ gene conservation of forest tree species
Summary
In the process of in-situ gene conservation of forest tree species in the tropics there are some silvicultural problems that directly effect the objectives and results of the conservation. Adequate solutions to these problems are needed. The problems are the fewness of the individuals of the species the gene conservation of which is needed, weak or poor regeneration, drastic competition between the tree species in the population. Without the interference of man, these can all result in the elimination of the species that need conservation. In addition to the species targeted by conservation, some species with supporting function, supplying food for other members of the ecological system also need proper protection.
****************************************
Tin mới nhất
- Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp
- Ảnh hưởng của mật độ và phân bón đến năng suất rừng trồng Keo lai 9,5 năm tuổi ở Quảng Trị
- Nghiên cứu đặc điểm đất đai tại khu vực loài Trúc đen (Phyllostachys nigra Munro) phân bố tại Sa Pa, Lào Cai
- Phân tích chỉ số đa dạng sinh học của thực vật thân gỗ trong Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà - Tp. Đà Nẵng
- Nghiên cứu đa dạng di truyền cây Dầu rái (Dipterocarpus alatus Roxb.) bằng kỹ thuật RAPD