THÔNG CARIBÊ
Tên khoa học: Pinus caribaea Morelet
Họ thực vật: Thông (Pinaceae)
1. Đặc điểm hình thái
Thông caribê là loài lá kim, thường xanh, cây gỗ lớn, cao tới 30-45m, đường kính đạt tới 60-80 cm.
Thân tròn, thẳng, vỏ nứt sâu. Cành màu nâu – da cam, sau chuyển thành nâu xám. Gỗ có màu nâu và có nhựa.
Mỗi bẹ lá chứa 3 lá kim (đôi khi có 2 hoặc 4-5 lá kim), dài 15-25cm, tập trung ở đầu cành và thường rụng vào năm thứ hai.
Nón cái mọc đơn độc, dạng hình trứng, dài 4-14cm. Trọng lượng 1000 hạt khoảng 14-19g.
2. Đặc tính sinh thái
Thông caribê gồm 3 biến chủng caribaea, honderensis và bahamensis đều phân bố tự nhiên ở vùng Trung Mỹ. Trong đó biến chủng caribaea phân bố từ 16o đến 20o vĩ Bắc, ở Cu Ba và đảo Juventus thuộc vùng biển Caribê, chủ yếu tập trung ở vùng thấp, đồi bát úp, thường ở độ cao 330m so với mực nước biển, nhưng cũng xuất hiện ở độ cao 760m, ít có trường hợp phân bố trên độ cao 1200m.
Biến chủng bahamensis phân bố tự nhiên từ 22o đến 27o vĩ Bắc, thuộc vùng đảo Bahamas và Caicos, ngoài ra cũng tìm thấy ở bán đảo Yucatan thuộc vùng Đông Bắc Mỹ.
Biến chủng hondurensis phân bố tự nhiên từ 12o đến 16o vĩ Bắc, tập trung chủ yếu ở đảo Belize, Guatemala, Poptun, Guanaja, Nicaragoa. Trên các khu vực đồng cỏ, đồng bằng ven biển có độ cao so với mực nước biển 460-760m, nhưng phân bố tập trung nhiều nhất trên độ cao 460m.
Thông caribê đã được dẫn nhập gây trồng trên 65 nước. Giới hạn vĩ độ trồng được mở rộng đáng kể so với nơi nguyên sản, từ vĩ độ 55o Nam ở Achentina tới 33o vĩ độ Bắc ở Ấn Độ Dương. Giới hạn kinh độ cũng được mở rộng từ 180o kinh độ Đông ở Fiji tới 158o kinh độ Tây ở Hawaii. Độ cao vùng trồng biến động từ mực nước biển tới 1200m ở Zaire, 1220m ở Nigeria, trên 1820m ở Uganda và 2400m ở Kenya. Vùng phân bố rừng trồng được mở rộng cả về vĩ độ và kinh độ, cả vùng có khí hậu miền núi tới khí hậu cận nhiệt đới và vùng ven biển.
Thông caribê có thể sinh trưởng tốt trên nhiều loại đất khác nhau khi được trồng ngoài vùng phân bố tự nhiên của chúng. Thông caribê được khảo nghiệm ở Guyana có chiều cao bình quân 19m ở tuổi 10, cá biệt có cây cao tới 25m. Ở Công gô – Brazaville các xuất xứ của honderensis đạt tăng trưởng 1,3m/năm về chiều cao, 2,08cm/năm về đường kính ở tuổi 4; biến chủng bahamensis đạt 1,08 m/năm về chiều cao và 1,4 cm/năm về đường kính.
3. Giống và tạo cây con
Chỉ được nhập và sử dụng hạt giống của các xuất xứ đã được khảo nghiệm và được Bộ NN&PTNT công nhận. Giống từ các xuất xứ Carwell (vùng trồng Đại Lải, Ba Vì); Byfiel (vùng trồng Đông Hà, Pleiku, Lang Hanh, Song Mây); Poprun 3 (vùng trồng Sông Mây, Đại Lải); Alamicamba (vùng trồng Pleiku, Lang Hanh). Các xuất xứ thứ sinh Đại Lải – Vĩnh Phúc, Bình Điền – Thừa Thiên Huế.
Cây mẹ lấy giống phải đạt từ 15 tuổi trở lên, đường kính ngang ngực trên 18cm, phát triển cân đối, độ thon nhỏ, tán tròn đều, cành nhánh nhỏ, góc phân cành lớn, không sâu bệnh.
Thời vụ thu hái vào tháng 7 tới tháng 9, khi có 2/3 số quả chuyển từ màu xanh sang màu cánh gián. Trèo cây hái quả hoặc dùng sào có móc móc quả, tránh không làm gãy cành, tuyệt đối không được chặt hoặc bẻ cành.
Quả thu về được gom thành đống, ủ 2-3 ngày cho chín đều, sau đó phơi ở nơi râm mát hoặc nắng nhẹ. Hàng ngày đảo quả cho hạt rơi ra, thu gom hạt, sàng xảy loại bỏ hạt lép, tạp vật. Tiếp tục phơi hạt nơi râm mát hoặc nắng nhẹ 3-5 ngày cho hạt khô, khi hàm lượng nước trong hạt còn từ 8 đến 10% thì đem bảo quản.
Hạt sau khi chế biến có thể gieo ngay. Hạt chưa gieo được bảo quản trong chum, vại, thùng gỗ, hộp xốp, để ở nơi khô ráo, thoáng mát (bảo quản thường). Nơi có điều kiện thì bảo quản hạt trong điều kiện khô lạnh ở nhiệt độ 5-100C.
Thời gian bảo quản hạt không quá 1 năm đối với bảo quản thường, không quá 2 năm đối với bảo quản khô lạnh.
Chất lượng hạt giống phải đảm bảo theo tiêu chuẩn 04-TCN-42-2001.
Hạt có thể gieo thẳng trên luống gieo hoặc trên khay.
Luống gieo phải được cày hoặc cuốc lật đất sâu 30cm, phơi ải kỹ rồi đập nhỏ, nhặt sạch cỏ và rễ cây. Mặt luống rộng 0,8-1m, rãnh luống rộng 0,5-0,6m, luống cao 10-15cm, dài 5-10m.
Khay gieo bằng gỗ hoặc tôn, có kích thước 0,5×0,4×0,05m, đáy có đục các lỗ nhỏ để thoát nước. Trong khay có chứa cát hoặc đất đã được đập nhỏ, sàng bỏ các hạt to trên 5mm và các tạp vật.
Trước khi gieo hạt 5-7 ngày phun Viben C 0,3% liều lượng 0,3 lít/m2 để phòng bệnh thối cổ rễ.
Trước khi gieo hạt 1 ngày tưới nước đủ ẩm cho luống gieo hoặc khay.
Các tỉnh miền Bắc trồng cây vụ Xuân thì gieo hạt vào tháng 9-10, trồng vào vụ Xuân Hè thì gieo hạt tháng 11-12. Các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam gieo hạt trước thời vụ trồng rừng (mùa mưa) từ 6-7 tháng, nơi có điều kiện đặc biệt 8-10 tháng.
Ngâm hạt đã loại bỏ tạp vật, hạt lép trong dung dịch thuốc tím (KMnO4) nồng độ 0,1% trong 30 phút rồi vớt ra rửa sạch. Tiếp tục ngâm hạt trong nước ấm có nhiệt độ 45-500C (2 sôi 3 lạnh) từ 8 đến 10 giờ, sau đó vớt ra rửa chua, để ráo nước, ủ trong túi vải, mỗi túi đựng không quá 1kg hạt, để ở nơi khô ráo. Trong thời gian ủ hạt phải luôn giữ nhiệt độ từ 30 đến 400C. Hàng ngày rửa chua bằng nước sạch 400C đến khi có khoảng 30% số hạt nứt nanh thì đem gieo.
Gieo đều hạt trên luống hoặc khay gieo với 1 kg/5-10m2. Sau đó, rắc một lớp đất bột phủ kín hạt, phủ mặt luống bằng một lớp rạ mỏng đã tẩy trùng. Dùng ô doa lỗ nhỏ hoặc bình phun thuốc đã rửa sạch tưới nhẹ. Tiếp tục tưới đủ ẩm đến khi cây mầm dài 2-3cm (cây mầm hình que diêm) thì đem cấy vào bầu. Chú ý bảo vệ hạt chống chim, chuột và côn trùng xâm hại.
Dùng túi bầu Polyetylen không đáy hoặc có đáy thì phải đục lỗ, kích thước 8 x 12 cm.
Thành phần hỗn hợp ruột bầu (tính theo khối lượng) gồm: Đất dưới thực bì tế guột hoặc cây bụi 89% (Nơi có điều kiện thay 5-10% đất dưới thực bì tế guột hoặc cây bụi bằng đất dưới tán rừng thông), phân chuồng hoai (không được ủ với vôi) 10%, supe lân 1%. Đất ruột bầu phải được đập nhỏ, sàng loại bỏ rễ cây, sỏi đá, tạp vật rồi trộn đều với phân chuồng và Supe lân.
Tạo luống đặt bầu (áp dụng ở những nơi không dùng luống nền cứng):
Luống rộng 1m, dài 5-10m, rãnh luống rộng 0,6m, mặt luống được rẫy sạch cỏ dại, san phẳng, nện chặt.
Trộn đều hỗn hợp ruột bầu theo tỷ lệ qui định. Cho đất vào 1/3 bầu lèn chặt để tạo đáy bầu, tiếp tục cho đất đầy bầu, vỗ cho đất xuống đều và chặt. Bầu được xếp sát nhau trên luống. Nếu là luống đất phải đắp gờ cao ít nhất bằng 2/3 thân bầu xung quanh luống để giữ bầu không bị nghiêng ngả.
Tưới nước đủ ẩm trên mặt luống gieo, dùng bay nhỏ bứng cây đặt vào bát nước để tránh làm khô rễ mầm. Dùng que nhọn chọc giữa bầu một lỗ nhỏ sâu hơn rễ cây mầm, đặt cây mầm vào sao cho cổ rễ dưới mặt bầu khoảng 3mm và dùng que ép chặt đất vào rễ mầm, cấy đến đâu lấy cây mầm đến đấy. Sau khi cấy phải tưới nước đủ ẩm và giữ ẩm thường xuyên.
Những nơi có khí hậu nắng nóng cần che bóng cho cây mầm bằng cách cắm ràng ràng hoặc làm giàn che 60-70% ánh sáng trong thời gian 20-30 ngày đầu.
Tưới đủ ẩm cho cây con vào sáng sớm và chiều mát. Số lần tưới, lượng nước tưới tùy thuộc vào điều kiện thời tiết và tình hình sinh trưởng của cây con. Về nguyên tắc phải luôn luôn giữ độ ẩm của đất trong bầu, tạo điều kiện cho cây sinh trưởng bình thường. Bình quân lượng nước cho mỗi lần tưới là 3-5 lít/m2.
Hạn chế tưới nước trước khi xuất vườn 20-30 ngày để huấn luyện cây.
Sau khi cấy 5-10 ngày tiến hành kiểm tra, cây nào chết phải cấy dặm ngay, đảm bảo mỗi bầu có 1 cây sinh trưởng và phát triển tốt.
Nhổ hết cỏ trong bầu và quanh luống, kết hợp với xới nhẹ, phá váng bằng một que nhỏ, sâu 5-10mm, xới xa gốc, tránh làm cây bị tổn thương, trung bình 10-15 ngày/lần.
Sau khi cấy được 2 tháng đến trước khi trồng 1tháng, nếu cây sinh trưởng kém thì tiến hành bón phân vô cơ. Dùng phân NPK (loại N:P:K = 5:10:3) hòa với nước nồng độ 0,5% để tưới với liều lượng 2,5lít/m2, mỗi lần tưới cách nhau từ 15-20 ngày cho đến khi cây sinh trưởng bình thường.
Tưới phân bằng ô doa lỗ nhỏ vào sáng sớm hoặc chiều tối, sau đó phải tưới rửa lá cho cây con bằng nước lã sạch (2,5 lít/m2) đề phòng táp lá. Không tưới phân vào ngày nắng gắt, tốt nhất tưới vào những ngày râm mát hoặc mưa phùn.
Cây con từ 3 đến 4 tháng tuổi thì tiến hành đảo bầu kết hợp với việc phân loại cây để chăm sóc. Sau khi đảo bầu cần tưới đẫm nước, chỉ đảo bầu vào những ngày râm mát hoặc có mưa nhỏ. Trước khi trồng 10-15 ngày cần đảo bầu lần cuối để tuyển chọn và huấn luyện cây trước khi mang đi trồng.
Phải theo dõi cây con thường xuyên để phát hiện bệnh kịp thời. Nếu phát hiện bệnh rơm lá thông, phải ngừng tưới nước và dùng Boocđô với nồng độ 1%, liều lượng 1 lít/4-6m2, phun 2 ngày 1 lần cho đến khi hết bệnh.
Dùng Viben C nồng độ 0,3% liều lượng 0,3 lít/m2 phun 2 tuần 1 lần cho tháng đầu tiên để phòng bệnh thối cổ rễ. Khi phát hiện bệnh phải ngừng tưới nước, xới cỏ phá váng cho bầu đất khô ráo, loại bỏ cây có bệnh ra khỏ vườn ươm, dùng Viben C nồng độ 0,3%, liều lượng 0,3 lít/m2 phun 3 ngày 2 lần cho tới khi hết bệnh.
Khi phát hiện có chuột, chim phá hoại cần phải đặt bẫy để xua đuổi. Nếu có kiến, dế xâm hại thì dùng thuốc Basurin 10H hoặc 20H trộn với đất bột rắc lên luống.
Tiêu chuẩn cây con: Cây được ươm 6-7 tháng, trường hợp đặc biệt 8-10 tháng, có đường kính cổ rễ 0,25-0,30cm, cao 25-40cm, tỷ lệ lá trưởng thành (lá thật) chiếm 15-20%, xanh tốt, phát triển cân đối, không cong queo, sâu bệnh, không bị cụt ngọn.
4. Trồng và chăm sóc rừng
Thích hợp gây trồng ở những nơi có lượng mưa bình quân năm 1200-2000mm, nhiệt độ bình quân năm 22-25oC, nhiệt độ bình quân tháng nóng nhất <30oC, nhiệt độ bình quân tháng lạnh nhất >22oC, nhiệt độ tối cao tuyệt đối <30oC, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối >12oC, có 0-3 tháng mưa ít hơn 50mm, độ cao 1-500m so với mực nước biển, địa hình dốc <25o; loại đất xám, đất đỏ vàng trên đá khác, đất đỏ trên mắc ma bazơ và trung tính, đất đỏ vàng và đất feralit mùn trên núi, độ dày tầng đất trên 100cm, pHKCl=4-5.
Có thể mở rộng gây trồng ở những nơi có lượng mưa bình quân năm 900-1200mm, 2000-2500mm, nhiệt độ bình quân năm 20-22oC hoặc 25-27oC, nhiệt độ bình quân tháng nóng nhất 30-34oC, nhiệt độ bình quân tháng lạnh nhất 12-22oC, nhiệt độ tối cao tuyệt đối 32-36oC, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối 6-12oC, có 3-5 tháng mưa ít hơn 50mm, độ cao 500-1000m so với mực nước biển, địa hình dốc 15-25o; loại đất phù sa, đất xói mòn trơ sỏi đá, độ dày tầng đất trên 50-100cm, pHKCl khoảng 3,5-4,0 hoặc 5,0-5,5.
Hạn chế gây trồng ở những nơi có lượng mưa bình quân năm <900mm hoặc >2500mm, nhiệt độ bình quân năm <20oC hoặc >27oC, nhiệt độ bình quân tháng nóng nhất >34oC, nhiệt độ bình quân tháng lạnh nhất 12<oC, nhiệt độ tối cao tuyệt đối >36oC, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối <6oC, có trên 5 tháng mưa ít hơn 50mm, độ cao trên >1000m so với mực nước biển, địa hình dốc >25o; loại đất cát, đất mặn mùa khô, đất mặn thường xuyên, đất phèn trung bình và nhẹ, đất phèn nặng, đất đen, đất than bùn, đất thung lũng dốc tụ, đất có độ dày tầng đất <50cm, pHKCl nằm trong khoảng <3,5 hoặc >5,5.
Thông caribê thích hợp trồng ở nơi có thực bì là cỏ xen cây bụi rải rác; cây bụi xen cây gỗ hoặc cỏ và cây bụi có cây gỗ rải rác.
Diện tích đất tự nhiên toàn quốc thích hợp để trồng Thông caribê chiếm 24,4%, có thể mở rộng 30,1%, ít thích hợp 45,5%.
Phải thiết kế băng cản lửa theo quy phạm phòng cháy chữa cháy rừng thông, rừng tràm và một số loại rừng dễ cháy khác (QPN 8-86 ban hành kèm theo quyết định 801/QĐ ngày 26/9/1986 của Bộ Lâm nghiệp). Băng cản lửa gồm băng chính và băng nhánh, băng chính cách nhau 1-2km, băng nhánh cách nhau 500-1000m. Băng chính có độ rộng tối thiểu 8-20m, băng nhánh có độ rộng tối thiểu 6-12m.
Nơi địa hình bằng phẳng hoặc dốc dưới 15o, băng phải vuông góc với hướng gió chính trong mùa dễ xảy ra cháy rừng. Nơi địa hình phức tạp, độ dốc trên 15o, thiết kế băng trùng với đường đồng mức.
Băng phải được trồng hỗn giao nhiều tầng bằng nhiều loại cây xanh có sức chịu lửa tốt, không rụng lá trong mùa khô, có sức tái sinh hạt và chồi mạnh, sinh trưởng phát triển nhanh, không có cùng loài sâu bệnh hại với cây trồng rừng, không là ký chủ của các loài sâu bệnh hại cây rừng.
Trồng theo phương thức thuần loại.
Mật độ trồng: Rừng lấy gỗ nhỏ kết hợp gỗ lớn trồng 1100 cây/ha (cự ly 3x 3m) hoặc 1300 cây/ha (cự ly 3×2,5m). Rừng phòng hộ kết hợp sản xuất trồng mật độ 1660 cây/ha (cự ly 2x3m) hoặc 2000 cây/ha (cự ly 2×2,5m).
Miền Bắc trồng rừng vào vụ Xuân hoặc Xuân hè (tháng 2-7), miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam trồng rừng vào đầu mùa mưa.
Xử lý thực bì phải hoàn thành trước khi trồng rừng 20-30 ngày.
Nơi thực bì xấu, thưa thớt, không cần xử lý.
Nơi có độ dốc nhỏ hơn 250, thực bì dày rậm, tiến hành phát toàn diện, phải chặt sát gốc, băm thành đoạn ngắn rải đều trên mặt đất.
Nơi có độ dốc lớn hơn 250, thực bì dày rậm, tiến hành phát theo băng song song với đường đồng mức, băng chặt rộng1,5m, băng chừa rộng 1-1,5m, thực bì được phát sạch, dọn xếp vào băng chừa.
Nơi có độ dốc nhỏ hơn 150, nếu có điều kiện thì dùng máy cày ngầm theo đường đồng mức, sau đó cuốc hố kích thước 30x30x30cm trên rãnh cày bằng thủ công.
Nơi có dốc lớn hơn 150 hoặc không có điều kiện cày ngầm thì cuốc hố kích thước 40x40x40 cm, lớp đất mặt để sang một phía, nhặt bỏ gốc, rễ cây nếu có.
Bón lót mỗi hố 100-200 gam Supe lân, nơi có điều kiện bón thêm 200 gam phân hữu cơ vi sinh hoặc 1kg phân chuồng hoai. Gạt lớp đất mặt xuống trộn đều với phân, sau đó lấp hố cao hơn mặt đất tự nhiên 2-3cm. Thời gian bón lót và lấp hố phải xong trước khi trồng 10-15 ngày.
Tưới nước đủ ẩm 1 đêm trước khi bốc xếp cây, tránh làm vỡ bầu, dập nát, gãy ngọn cây trong quá trình bứng, bốc, xếp và vận chuyển.
Cây chuyển tới phải kịp thời trồng ngay, nếu chưa kịp trồng phải xếp ở nơi râm mát và phải tưới nước đảm bảo độ ẩm trong bầu.
Trồng vào thời điểm râm mát, mưa nhỏ hoặc nắng nhẹ và đất trong hố phải đủ ẩm.
Rải cây đến từng hố trước khi trồng, cây đã rải ra hố phải trồng hết trong ngày.
Dùng cuốc nhỏ hoặc bay đào một hố rộng và sâu hơn bầu 1-2cm ở vị trí giữa hố đã lấp.
Rạch bỏ vỏ bầu và đặt cây con thẳng đứng vào giữa hố, tránh làm vỡ bầu.
Dùng đất tơi ở lớp đất mặt bên ngoài lấp đầy hố, lèn chặt đất xung quanh bầu và vun thêm đất vào gốc cây thành hình mâm xôi, cao hơn mặt đất tự nhiên khoảng 3-5cm.
Sau khi trồng 20-30 ngày, phải kiểm tra tỷ lệ sống, nếu đạt dưới 85% phải trồng dặm, nếu trên 85% chỉ trồng dặm lại ở những nơi cây chết tập trung, kỹ thuật trồng dặm như trồng chính.
Sau 1 năm, nếu tỷ lệ sống chưa đạt 85% thì phải tiếp tục trồng dặm bằng cây con của năm trước.
Chăm sóc rừng ít nhất 3 năm liền:
Năm thứ nhất: Rừng trồng vào vụ Xuân chăm sóc 2 lần vào tháng 7 và tháng 10. Phát thực bì toàn diện, xới cỏ, vun gốc cây rộng 0,8m. Rừng trồng vụ Xuân Hè chăm sóc 1 lần vào tháng 10.
Trồng vào đầu mùa mưa: Chăm sóc 1 lần như lần 2 nói trên vào cuối mùa mưa.
Năm thứ 2 và 3 mỗi năm chăm sóc 2 lần vào đầu và cuối mùa mưa. Phát dọn thực bì toàn diện, xới cỏ, vun gốc rộng 0,8m. Kết hợp bón thúc 100 gam phân NPK (loại N:P:K = 5:10:3) cho mỗi cây vào lần chăm sóc đầu.
Phòng cháy, chữa cháy rừng áp dụng tiêu chuẩn ngành 04TCN 89-2006 – quy phạm phòng cháy, chữa cháy rừng thông của Bộ NN&PTNT.
Phòng trừ sâu bệnh hại áp dụng quy phạm kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh hại cây rừng (04-TCN-27-2001).
Cấm chăn thả gia súc trong 3 năm đầu sau trồng rừng. Lập các biển báo cấm chặt phá và sử dụng lửa trong rừng.
5. Khai thác, sử dụng
Gỗ có tỷ trọng 0,45-0,47, sợi dai, hiệu suất bột giấy 48%, thích hợp làm nguyên liệu giấy, làm gỗ xẻ, gỗ xây dựng, gỗ trụ mỏ, ván dán, ván ép, ván ốp tường, đóng tàu thuyền, đóng contenơ, làm cột điện, cột nhà, đóng đồ nội thất. Vỏ cây chiết xuất được 10% tanin. Nhựa dùng trong công nghiệp sơn, giấy. Kết hợp chích nhựa trước khi khai thác chính.
Khi rừng trồng có nhiều cây giao tán với nhau thì tiến hành tỉa thưa. Rừng trồng để lấy gỗ lớn tỉa thưa 3 lần với số cây giữ lại theo cấp đất:
Cấp đất |
Lần 1 (8-10 tuổi) (cây/ha) |
Lần 2 (14-16 tuổi) (cây/ha) |
Lần 3 (20-22 tuổi) (cây/ha) |
Tốt (I) |
900-1100 |
600-700 |
350-450 |
Trung bình (II) |
1000-1200 |
700-800 |
400-500 |
Xấu (III) |
1100-1200 |
800-900 |
450-550 |
Rừng trồng để lấy gỗ nhỏ thì tùy thuộc mức độ cạnh tranh của cây rừng và khả năng tiêu thụ sản phẩm mà không tỉa hoặc tỉa thưa 1 lần như lần 1 đối với rừng trồng lấy gỗ lớn.
Những cây bài tỉa là những cây bị sâu bệnh, bị chèn ép, cụt ngọn, không có triển vọng. Phải bài cây trước khi chặt, phải chặt cây sát gốc, hướng cây đổ không ảnh hưởng tới cây giữ lại. Không chặt 3 cây liền nhau và đảm bảo cây giữ lại phân bố đều trong rừng.
Ở Malaixia, Thông caribê được trồng trên diện tích lớn và cho năng suất trung bình 17m3/ha/năm. Ở miền Bắc nước Úc các xuất xứ tốt nhất của hondurensis ở tuổi 10 cho năng suất 22m3/ha/năm, ở tuổi 9,5 các xuất xứ của biến chủng caribaea đạt 16-18 m3/ha/năm và các xuất xứ của biến chủng bahamensis đạt 14,8 m3/ha/năm.
Tin mới nhất
- Hội nghị tổng kết công tác năm 2024 và phương hướng triển khai nhiệm vụ năm 2025
- Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng nhận cờ thi đua nhân kỷ niệm 50 năm thành lập
- VFCS được công bố tại website của Cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản
- Lễ ký ký biên bản ghi nhớ về việc trao các mẫu vật liệu mới từ gỗ của Đại sứ quán (ĐSQ) Phần Lan để phục vụ trưng bày tại Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
- Hội đồng nghiệm thu sản phẩm và tổng kết nhiệm vụ Khoa học Công nghệ cấp tỉnh "Nghiên cứu hoàn thiện kỹ thuật nhân giống và xây dựng mô hình trồng thâm canh Vù hương (Cinnamomum balansae H.Lec) cung cấp gỗ lớn kết hợp lấy tinh dầu tại tỉnh Lào Cai"
Các tin khác
- THÔNG BÁO: về việc hoán đổi ngày nghỉ hàng tuần vào dịp 2-9
- Hội thảo tư vấn “Rà soát danh mục loài cây chủ lực cho trồng rừng sản xuất theo 9 vùng sinh thái Lâm nghiệp” tại Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
- Báo cáo kết quả đề tài: Nghiên cứu chọn, nhân giống và kỹ thuật gây trồng Dầu rái (Dipterocarpus alatus Roxb.) và Sao đen (Hopea odorata Roxb.)
- Kỹ thuật trồng Thông ba lá
- Kỹ thuật trồng Sồi phảng