SỒI PHẢNG
Tên khác: Dẻ bộp, Cồng
Tên khoa học: Lithocarpus fissus Champ ex Benth.
Họ thực vật: Dẻ (Fagaceae)
(Nguồn chính: Nguyễn Thị Nhung, 2009)
1. Đặc điểm hình thái
Là cây ưa sáng mọc ở bìa rừng và những chỗ trống có thể mọc thành quần thụ ưu thế rõ rệt (chiếm 75-80 % số cây). Là cây thường xanh quanh năm.
2. Đặc tính sinh thái
Là cây ưa sáng, tốc độ sinh trưởng tương đối nhanh có thể trồng hỗn giao với nhiều loài cây khác.
Trong vùng phân bố cây Sồi phảng không kén đất có thể sống và sinh trưởng ở nhiều loại đất.
Cây tái sinh hạt mạnh, tái sinh chồi kém. Cây dễ trồng, sinh trưởng nhanh. Ở Lâm trường Cẩm Phả đã trồng rừng Sồi phảng thuần loài, còn ở Cầu Hai đã khoanh nuôi và trồng Sồi phảng hỗn giao với các loài bản địa khác đều thu kết quả tốt.
Sồi phảng có biên độ sinh thái rộng nên có thể gây trồng ở tất cả các tỉnh miền Bắc những nơi có lượng mưa bình quân 1500-2500 mm/năm, nhiệt độ bình quân 20-27oC.
Sồi phảng có thể trồng các loại đất thịt, đất sét nhẹ nhưng thích hợp nhất là đất Feralit còn tính chất đất rừng.
3. Giống và tạo cây con
Cây lấy giống phải là cây sinh trưởng tốt, thân thẳng, tán rộng. đều không bị sâu bệnh và đã có từ hai vụ quả trở lên (cây đạt 11-12 tuổi). Phải lấy hạt từ cây giống, từ vườn giống hoặc rừng giống chuyển hóa đã được công nhận.
Hạt giống phải đạt đường kính hạt từ 1,7-1,9 cm, chiều dài hạt 2,6-2,8 cm. Trong 1 kg hạt có 150-160 hạt, 1 kg quả có 105-110 hạt và 0,15 kg đấu. Tỷ lệ nảy mầm trên 70%.
Sồi phảng ra hoa tháng 11-12, quả chín tháng 4-5, quả Sồi phảng lúc chín vỏ chuyển từ màu xanh nâu sang màu vàng nâu, hạt có màu nâu vàng. Thời vụ thu hái tốt nhất vào cuối tháng 4, đầu tháng 5. Dùng sào có buộc ngoắc ở đầu để ngoắc từng chùm khi quả chuyển màu hoặc nhặt hạt khi quả chín rụng xuống. Không chặt cành ảnh hưởng đến năng suất vụ sau.
Khi thu hái về cần loại bỏ tạp chất, quả nhỏ ủ vào cát từ 1-2 ngày cho đế (đấu) quả rời ra rồi đem gieo ươm ngay hoặc bảo quản.
Cách bảo quản trong cát: Trộn đều hạt trong cát 5- 6% với tỷ lệ 1 hạt /2 cát (tính theo khối lượng) sau đó vun thành luống cao 15-20 cm/ trên mặt cần rải thêm 1 lớp cát mỏng khoảng 1-2 cm để phủ kín hạt. khoảng 5-7 ngày đảo một lần. Thời gian bảo quản khoảng 10-15 ngày.
Tuỳ theo số tháng nuôi cây con trong vườn ươm để chọn đường kính bầu. Dùng bầu Polyetylen nếu nuôi cây dưới 6 tháng chọn cỡ 9 x13cm, nếu nuôi cây trên 9 tháng trở lên thì cỡ 12 x15 cm.
Thành phần ruột bầu gồm đất tầng mặt thịt nhẹ, đất tốt + 10% phân chuồng hoai và 1% phân NPK (5:10:3). Bầu đóng xong được xếp thành luống rộng 0,8 đến 1m, mặt bầu phẳng, lấp đất xung quanh 2/3 bầu và các kẽ hở của bầu để cho chặt luống bầu. Các luống bầu cách nhau 50-60 cm để chăm sóc cây con được thuận tiện.
Gieo hạt trên luống cát ẩm hoặc luống đất đến khi hạt nảy mầm được 2 lá thì nhổ cấy vào bầu.
Ủ hạt trong cát ẩm đến khi hạt nứt nanh thì mang gieo trực tiếp vào bầu, lưu ý khi cấy hạt để hạt nằm ngang hoặc phần mầm rễ nhú ra xuống dưới và lấp đất dày từ 1-2 cm. Cần tưới ẩm bầu trước khi cấy hạt.
Phương pháp gieo hạt trực tiếp vào bầu là tốt nhất.
Khi gieo ươm cần làm giàn che bóng 50-60% khoảng 15-25 ngày, sau đó giảm dần dàn che xuống 40% khi cây ra được 3-4 lá thật cần bỏ dần dàn che nhưng phải chọn ngày dâm mát và phải bỏ từ từ tránh cây bị nắng đột ngột. Vật liệu dùng làm dàn che tốt nhất là đan phên bằng nứa hoặc tre, có thể dùng tế guột cắm để che bóng.
Trong thời gian đầu cần tưới nước thường xuyên nhưng chỉ vừa đủ ẩm không hạt bị thối do úng nước, giai đoạn đầu cây con tưới thường xuyên sau khi cây được 2 tháng tuổi lượng nước tưới giảm dần tuỳ theo thời tiết và độ ẩm của bầu.
Sau 1 tháng tiến hành nhổ cỏ phá váng mặt bầu lần 1, thời gian nhổ cỏ phá váng lần 2 tuỳ theo lượng cỏ và độ cứng của mặt bầu.
Khi cây cao được 10 cm có thể bón thêm phân NPK(5:10:3) bằng cách pha 0,2 kg vào 10 lít nước, tưới đều trên mặt luống khoảng 4m2; 10-15 ngày tước 1 lần tuỳ theo mức độ sinh trưởng tốt, xấu của cây để quyết định số lần tưới phân, thời gian dừng tưới phân trước khi cây xuất vườn 1-2 tháng.
Khi phát hiện thấy có sâu quấn lá thì dùng thuốc sâu Pastac hoặc baxa phun trên mặt luống. Nếu bị nấm thì dùng benlát nồng độ 1% để phun đều trên mặt luống, cách 7-10 ngày phun 1 lần đến khi hết thì ngừng phun.
Sau khi cây mầm đã lên được 2-3 lá thì cần dồn lại bầu, loại bỏ bầu không có cây để dặm và tập trung chăm sóc cây con. Trước khi trồng từ 1- 1,5 tháng cần tiến hành đảo bầu, cắt lá, hãm cây để khi trồng không bị chột cây. Nếu thời gian nuôi cây trong vườn ươm lâu thì khoảng 3 tháng phải đảo 1 lần. Khi đảo bầu phải chọn thời tiết dâm mát, và tưới nhiều nước cho ẩm bầu tránh làm vỡ bầu.
Tiêu chuẩn cây con xuất vườn: Tuổi cây từ 4 tháng trở lên, sinh trưởng bình thường, phát triển cân đối, không sâu bệnh hoặc cụt ngọn, cao trên 30cm, đường kính gốc trên 0,5cm.
4. Trồng và chăm sóc rừng
Trồng thuần loài:
Thực bì được phát dọn sạch trước thời vụ trồng 2 tháng, dọn sạch thực bì có thể đốt hoặc băm nhỏ cành nhánh.
Cuốc hố với kích thước 40x40x40 cm, sau 15-20 ngày lấp hố, bón lót bằng phân chuồng hoai (3-5 kg/hố) hoặc phân NPK(5:10:3) với lượng 0,1-0,15 kg/hố đảo đều phân và đất.
Khi thời tiết thuận lợi thì trồng cây chú ý khi lấp đất xuống hố phải lấy lớp đất mặt đập nhỏ, lượng đất lấp phải đầy hố, cao hơn miệng hố 3-4 cm.
Mật độ thích hợp là 1100 cây/ha cự ly 3m x 3m.
Ngoài ra có thể trồng mật độ 2000 cây/ha cự ly 2,5x2m hoặc 1660 cây/ha cự ly 3x2m.
Trồng thuần loài có thể tận dụng trồng xen cây nông nghiệp 2 năm đầu bằng các biện pháp nông lâm kết hợp hoặc trồng cây cốt khí phù trợ nhằm cải tạo đất.
Trồng bằng cây con có bầu trên 4 tháng tuổi, khi trồng cần rạch bỏ vỏ bầu, lấp đất đến cổ rễ và lèn chặt đất, chú ý cây phải đặt thẳng đứng ở giữa hố.
Trồng vào vụ Xuân tháng 2- 4, vụ Thu tháng 8-9.
Rừng trồng cần chăm sóc 3- 4 năm đầu.
– Năm thứ nhất: Nếu trồng vụ xuân thì chăm sóc 2 lần, lần 1 vào tháng 5-6 gồm luỗng phát cỏ dại, dây leo, cây bụi; lần 2 vào tháng 9-10 gồm luỗng phát cỏ dại, dây leo, cây bụi, xới đất quanh gốc cây rộng 1m.
Nếu trồng vụ Thu thì chăm sóc 1 lần vào tháng 10-11, gồm luỗng phát cây cỏ, dây leo, cây bụi, không xới đất quanh gốc.
– Chăm sóc năm thứ hai 3 lần, gồm 2 lần luỗng phát cây cỏ, dây leo, cây bụi và xới đất quanh gốc rộng 1m vào tháng 2-3, 7- 8 và 1 lần luỗng phát cây cỏ, dây leo, cây bụi vào tháng 11.
– Chăm sóc năm thứ ba, thứ tư mỗi năm 2 lần, gồm 1 lần luỗng phát cây cỏ, dây leo, cây bụi và xới đất quanh gốc cây rộng 1m vào tháng 2-4 và 1 lần luỗng phát cây cỏ, dây leo, cây bụi vào tháng 8-9.
Trồng rừng hỗn giao:
Sồi phảng có thể trồng hỗn giao với các loài cây bản địa khác như Kháo vàng, Re gừng, Giẻ cau, Lim xanh, Xoan đào, Dẻ đỏ,… và có thể trồng hỗn giao theo hàng, dải với keo lai hoặc Keo tai tượng.
Mật độ trồng thích hợp là 1100 cây/ha hoặc 1660 cây/ha tuỳ phương thức hỗn giao để chia số cây trồng từng loài theo mật độ.
Sồi phảng trồng hỗn giao với 1 hoặc các loài cây bản địa khác nêu trên theo 3 phương thức:
Trồng hỗn giao theo cây (cây nọ cây kia hoặc 3 cây nọ 3 cây kia)
Trồng theo hàng (hàng nọ hàng cây kia)
Trồng theo dải (3-5 hàng cây cùng loài)
Kỹ thuật trồng chăm sóc rừng áp dụng như trồng thuần loài.
Trồng theo rạch, đám:
Thường áp dụng để làm giàu rừng tự nhiên nghèo kiệt hoặc cải tạo rừng phòng hộ kém hiệu quả.
Phát băng trồng rộng 6-8 m, băng chừa 4 m, trong băng phát dọn sạch thực bì, thiết kế hố giữa rạch trồng với cự ly 2,5-3m, cuốc hố 40x40x40 cm. Cũng có thể trồng theo đám tuỳ theo khoảng trống lớn hay nhỏ.
Kỹ thuật cuốc hố, trồng, chăm sóc áp dụng như trồng thuần loài nhưng cần lưu ý khi phát chăm sóc cần luỗng phát cả những cành nhánh của cây rừng cũ ở băng chừa mở độ chiếu sáng cho cây trồng và xúc tiến tái sinh tự nhiên.
5. Khai thác, sử dụng
Gỗ Sồi phảng có tỷ trọng 0,72, xếp nhóm V, cứng dùng trong xây dựng và trụ mỏ.
Sồi phảng sinh trưởng khá nhanh, chu kỳ kinh doanh không quá dài (20-30 năm). Khi rừng đạt tuổi 4-5, bắt đầu khép tán thì tỉa thưa lần đầu những cây xấu, giữ lại 900 cây/ha cây tốt (đối với rừng trồng mật 1100 cây/ha), 1300 cây/ha (đối với rừng trồng mật độ 1660 cây/ha) để nuôi dưỡng.
Lần tỉa thưa thứ hai vào năm thứ 8-9, tỉa cây xấu, giữ lại cây tốt với mật độ để lại 700-900 cây/ha.
Đến năm thứ 13-14, tỉa thưa giữ lại mật độ cuối cùng là 500-700 cây/ha.
Tin mới nhất
- Hội nghị “Thúc đẩy thí điểm cấp, quản lý mã số vùng trồng rừng nguyên liệu và khởi động dự án FCBMO”
- Hội đồng tổng kết nhiệm vụ Khoa học Công nghệ cấp tỉnh: Nghiên cứu trồng rừng thâm canh cây Sồi phảng (Lithocapus fissus Champ. Ex Benth) cung cấp gỗ lớn ở Quảng Ninh
- Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình phối hợp công tác giữa Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Tuyên Quang với Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, giai đoạn 2021 - 2025
- PGS.TS Hoàng Văn Thắng - Viện trưởng Viện nghiên cứu Lâm Sinh - Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam được tôn vinh :” Nhà khoa học của nhà nông 2024”
- Điều động, bổ nhiệm Phó Trưởng ban Khoa học, Đào tạo và Hợp tác quốc tế
Các tin khác
- Thông báo bán đấu giá tài sản là rừng trồng thuộc trạm Thực nghiệm Lâm nghiệp Cam Ly, phường 5, TP Đà Lạt, Tỉnh Lâm Đồng.
- Thông tin về buổi lễ bảo vệ luận án Tiến sĩ cấp Viện của NCS Vũ Đức Quỳnh
- Báo cáo tóm tắt đề tài: Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật xây dựng mô hình rừng trồng Keo bằng giống tiến bộ kỹ thuật mới được công nhận tại vùng Bắc Trung Bộ.
- Kỹ thuật trồng Sao đen
- Báo cáo tóm tắt đề tài: Khảo nghiệm giống và đánh giá khả năng phát triển cây Macadamia ở Việt Nam