Báo cáo tóm tắt kết quả đề tài: Nghiên cứu chọn giống và biện pháp kỹ thuật trồng rừng Sở thâm canh cho vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc trung bộ

TS. Hoàng Văn Thắng

 ĐẶT VẤN ĐỀ

Sở là loài cây bản địa đa tác dụng, ngoài giá trị phòng hộ, Sở còn có giá trị kinh tế cao. Sản phẩm chính của cây Sở là lấy hạt ép dầu, một trong các loại dầu ăn từ thực vật có chất lượng cao. Ở Việt Nam, trong những năm trước đây, cây Sở đã được được gây trồng trên nhiều dạng lập địa ở các tỉnh từ phía Bắc đến các tỉnh miền Trung theo các Chương trình, Dự án của Nhà nước và tự phát của người dân ở các địa phương. Thực tiễn cho thấy, hầu hết các giống Sở được sử dụng để trồng rừng trong sản xuất hiện nay là giống chưa được chọn lọc. Người dân thường lấy hạt của các cây Sở trong vườn, rừng để gieo ươm và gây trồng mà chưa có sự chọn lọc và kiểm tra về hàm lượng dầu của chúng. Ngoài ra, các biện pháp kỹ thuật trồng rừng Sở chủ yếu hiện nay vẫn là các biện pháp trồng quảng canh. Việc trồng rừng thâm canh chưa được quan tâm nhiều. Do đó năng suất và chất lượng của các rừng Sở đạt được thường không cao. Đứng trước tình hình đó, việc nghiên cứu tuyển chọn các giống Sở năng suất, chất lượng cao cũng như xác định các biện pháp kỹ thuật trồng rừng Sở thâm canh để nâng cao năng suất, chất lượng rừng Sở là rất cần thiết.

Kiem tra MH tham canh (1)

1. Nội dung và phương pháp nghiên cứu

1.1. Nội dung nghiên cứu

– Khảo sát xác định hiện trạng rừng Sở ở các vùng Tây Bắc; Đông Bắc; Trung tâm và Bắc Trung bộ Việt Nam

– Nghiên cứu chọn giống và biện pháp kỹ thuật nhân giống Sở năng suất cao

– Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật trồng rừng Sở thâm canh cho vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung bộ (5 ha cho mỗi vùng) và xây dựng dự thảo quy trình kỹ thuật trồng rừng Sở thâm canh cho 3 vùng.

1.2. Phương pháp nghiên cứu

Kế thừa các kết quả nghiên cứu và các tài liệu đã có về cây Sở. Trên cơ sở điều tra đánh giá hiện trạng các rừng Sở ở các địa phương, lựa chọn các rừng Sở cho năng suất quả cao để lựa chọn các cây trội dự tuyển. Các cây trội dự tuyển được theo dõi liên tục trong 3 năm để từ đó chọn ra các cây trội cho năng suất hạt và sản lượng dầu cao, đồng thời tiến hành thu thập hạt từ các cây trội dự tuyển để nhân giống và bố trí các thí nghiệm trồng rừng thâm canh cho 3 vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc trung bộ thông qua các biện pháp bón phân, làm đất, trồng xen. Các thí nghiệm trồng rừng thâm canh được bố trí theo khối đầy đủ ngẫu nhiên và lặp lại 3 lần tại cả 3 địa điểm thuộc 3 vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ. Bao gồm các thí nghiệm về bón phân, làm đất, trồng caâ kết hợp và phục hồi phục tráng rừng Sở già cỗi.

Số liệu của các thí nghiệm trồng rừng Sở thâm canh được thu thập trên các ô tiêu chuẩn định vị có diện tích là 500m2/lặp/công thức (Dung lượng mẫu trong mỗi lần lặp của mỗi công thức thí nghiệm từ 35-40 cây). Sử dụng tiêu chuẩn Levene để kiểm tra sự bằng nhau về phương sai của các mẫu trong các CTTN trồng rừng Sở thâm canh. Áp dụng phương pháp phân tích phương sai một nhân tố thông qua kiểm tra đa biến để đánh giá các kết quả nghiên cứu về thí nghiệm thâm canh. Sử dụng tiêu chuẩn Duncan để tìm ra công thức tốt nhất.

2. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

2.1. Khảo sát xác định hiện trạng rừng Sở ở các vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Trung tâm và Bắc Trung Bộ Việt Nam

Kết quả điều tra cho thấy, tổng diện tích Sở trồng ở các tỉnh miền Bắc đến cuối năm 2006 là 6262,3ha, trong đó Nghệ An là tỉnh còn diện tích trồng Sở lớn nhất, hiện còn ở các huyện Nghĩa Đàn, Kỳ Sơn, Tân Kỳ, Yên Thành, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, … với tổng diện tích rừng Sở của toàn tỉnh là 5613,4ha, trong đó hiện còn tập trung nhiều nhất là ở Sông Hiếu với tổng diện tích là 1333,3ha. Kết quả điều tra cũng cho thấy, hiện nay các giống Sở được sử dụng trồng ở các địa phương gồm có Sở quýt, Sở cam, Sở lê, Sở chè và Sở cành mềm Trung Quốc. Sở chè được trồng nhiều nhất ở Nghệ An, Sở cam, Sở quýt và Sở lê được trồng nhiều ở các tỉnh Lạng Sơn, Quảng Ninh, Phú Thọ, Yên Bái, Hà Giang. Còn Sở cành mềm Trung Quốc mới được trồng thử nghiệm ở 6 điểm là xã Hải Yến huyện Cao Lộc (Lạng Sơn), xã Vân Sơn, huyện Đoan Hùng (Phú Thọ), xã Vĩnh Đồng, huyện Kim Bôi (Hoà Bình), Làng Mô, huyện Sìn Hồ (Lai Châu), xã Đại Lộc, huyện Hậu Lộc (Thanh Hoá) và xã Nghĩa Lộc, huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An). Hầu hết các giống Sở được trồng ở các địa phương đều chưa được chọn lọc. Nhìn chung ở hầu hết các địa phương đều trồng Sở với mật độ tương đối cao, từ 1100 cây/ha (ở Phú Thọ) đến 4900 cây/ha (ở Hà Giang). Rừng Sở trồng thuần loài thường có mật độ lớn trên 2000 cây/ha, đối với rừng Sở trồng hỗn giao thì mật độ của Sở thường 200-300 cây/ha. Những địa phương trồng với mật độ cao chủ yếu là để phủ xanh đất trống, đồi trọc còn mục tiêu lấy quả, hạt chỉ là phụ (điển hình như ở Hà Giang). Tuy nhiên Sở là cây trồng với mục tiêu chính là lấy hạt ép dầu vì vậy việc trồng Sở với mật độ cao làm cho sản lượng rừng Sở đạt rất thấp, thậm chí nhiều nơi cây không có quả. Kết quả điều tra về năng suất quả Sở ở các địa phương được trình bày như trong bảng 1.

Bảng 1: Năng suất Sở ở các tỉnh điều tra

Địa điểm

 

Loài Sở

Tuổi cây

Tỷ lệ hạt/quả tươi (%)

Năng suất/ha

Quả tươi (tấn)

Hạt tươi

(tấn)

Quảng Ninh Sở cam

36

31.50

5,39

1,7

Lạng Sơn Sở quýt

31

32,25

5,58

1,8

Hà Giang Sở lựu

36

31,5

6,67

2,1

Sở chè

36

51.4

2,92

1,5

Thanh Hoá Sở lê

11

46,1

4,38

2,0

Nghệ An Sở chè

30

65,6

4,45

  2,9

 

2.2. Kết quả nghiên cứu chọn giống và biện pháp kỹ thuật nhân giống Sở năng suất cao

2.2.1. Kết quả chọn lọc cây trội

Căn cứ vào mức độ vượt trội về sản lượng hạt so với trung bình quần thể, tình hình sinh trưởng và các đặc điểm về quả và hạt của cây mẹ, năm 2006 đề tài đã chọn được 60 cây trội dự tuyển ở các tỉnh Nghệ An, Phú Thọ và Quảng Ninh. Căn cứ vào sản lượng hạt và hàm lượng dầu, trong 2 năm tiếp theo là 2007 và 2008 đã chọn ra được 12 cây trội cho năng suất hạt và hàm lượng dầu cao nhất, đáp ứng được mục tiêu của đề tài. Trong đó ở Nghĩa Đàn chọn được 5 cây, Tam Nông chọn được 4 cây và ở Tiên Yên chọn được 3 cây. Số liệu về năng suất quả và sản lượng dầu của 12 cây trội được trình bày như trong bảng 2.

Bảng 2: Năng suất quả và sản lượng dầu bình quân trong 3 năm theo dõi của 12 cây trội

(Hàm lượng dầu được phân tích tại Phòng hóa dầu – Viện Công nghiệp thực phẩm HN)

Địa điểm chọn cây trội

Ký hiệu cây trội

Trọng lượng hạt

(kg /cây)

Độ vượt về năng suất hạt so với TBQT

(%)

Hàm lượng dầu (%)

Sản lượng dầu

(kg/c)

Độ vượt về sản lượng dầu so với TBQT (%)

Tiên Yên – Quảng Ninh

QN2

7,4

183,4

44,2

1,5

206,3

QN6

7,5

174,8

45,2

1,6

212,0

QN14

5,8

114,0

50,4

1,4

185,8

TBQT

2,7

39,6

0,5

Tam Nông – Phú Thọ

PT3

6,3

115,5

49,9

1,7

210,3

PT4

6,6

126,2

49,8

1,5

186,9

PT8

6,7

141,3

48,3

1,5

189,6

PT18

7,3

166,3

48,4

1,7

231,7

TBQT

2,8

42,8

0,5

Nghĩa Đàn – Nghệ An

NA1

18,2

138,5

52,1

5,9

220,9

NA6

12,9

72,7

49,1

3,5

96,2

NA8N

12,8

87,4

51,3

3,8

139,4

NA13

11,3

63,5

52,3

3,4

106,9

NA15

11,8

56,2

49,6

3,5

86,1

TBQT

7,3

42,4

1,8

2.2.2. Kết quả nghiên cứu phương pháp nhân giống sinh dưỡng Sở

     a). Kết quả nghiên cứu kỹ thuật giâm hom:

Thí nghiệm nghiên cứu thăm dò các loại thuốc kích thích sự ra rễ của hom Sở đã chọn được loại hormon NAA dạng bột là có triển vọng nhất. Từ các kết quả này đề tài đã sử dụng loại hormon NAA dạng bột để nghiên cứu cho các thí nghiệm về giâm hom Sở tiếp theo. Để chọn ra loại nồng độ thích hợp nhất đề tài đã bố trí các thí nghiệm giâm hom Sở với 8 loại nồng độ khác nhau, từ 0,05-2,0%. Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của các loại nồng độ thuốc bột NAA đến sự ra rễ của hom Sở cho thấy, công thức sử dụng thuốc NAA với nồng độ 0,1% cho tỷ lệ hom Sở ra rễ là cao nhất đạt 72,3%. Ngoài ra chất lượng của hom Sở trong công thức này cũng đạt kết quả tốt nhất. Số rễ trung bình trên mỗi hom đạt 7,3 rễ và chiều dài rễ trung bình của mỗi hom đạt 7,0 cm. Kết quả nghiên cứu về mùa vụ giâm hom cũng cho thấy, giâm hom Sở vào tháng 8 cho tỷ lệ hom ra rễ cao nhất (72,4%) và chất lượng hom cũng tương đối tốt. Số rễ trung bình trên mỗi hom là 7,3 rễ và chiều dài rễ trung bình là 7,0cm.

b). Kết quả nghiên cứu kỹ thuật ghép cây mầm

Thí nghiệm nghiên cứu chọn ra vật liệu kết nối giữa gốc ghép và chồi ghép loài cây Sở cho thấy trong các vật liệu là nilong, băng paraphin và giấy nhôm mỏng thì ghép cây mầm bằng giấy nhôm mỏng cho tỷ lệ sống của cây mầm là cao nhất, đạt 80,0% và vật liệu ghép là băng paraphin cho tỷ lệ sống của cây mầm là thấp nhất, đạt 5,0%. Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của tuổi gốc ghép đến tỷ lệ sống của cây Sở ghép (sau 3 tháng) với vật liệu kết nối là gấy nhôm mỏng cho thấy trong các loại tuổi gốc ghép thì ghép trên gốc cây mầm 30 ngày tuổi cho tỷ lệ sống cao nhất, đạt 80,0%, trong khi đó ghép cây mầm trên gốc ghép 110 ngày tuổi chỉ đạt tỷ lệ sống là 47,6%. Kết quả các thí nghiệm về mùa vụ ghép cây mầm cũng cho thấy, tỷ lệ sống của cây ghép trong khoảng từ tháng 3 – 4 (vụ xuân hè) đều cao hơn so với tỷ lệ sống của cây ghép trong giai đoạn từ tháng 6 – 10 (vụ hè thu).

c). Kết quả nghiên cứu kỹ thuật chiết cành

Kết quả thử nghiệm về biện pháp chiết cành cho 2 loài Sở khác nhau bằng hai loại thuốc kích thích là NAA 0,1% và IBA 0,5% được trộn với hỗn hợp bùn và rơm mục cho thấy, sau 65-70 ngày, cành chiết của các loài Sở mới bắt đầu ra rễ và sau khoảng 3,5 tháng rễ Sở mới ra nhiều và phải sau 6 -7 tháng kể từ khi chiết mới có thể cắt cành chiết mang đi trồng. Tỷ lệ số cành chiết của các loài Sở ra rễ nhìn chung đều đạt rất thấp, chỉ đạt từ 22,7- 41,5%. Tỷ lệ cành ra rễ của Sở lựu ở Quảng Ninh cao hơn so với Sở chè ở Nghệ An. Công thức dùng thuốc kích thích IBA cho tỷ lệ cành Sở ra rễ thấp hơn so với dùng thuốc kích thích NAA đối với cả 2 giống Sở chè và Sở lựu.

2.3. Kết quả nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật trồng rừng Sở thâm canh cho các vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc trung bộ.

2.3.1. Kết quả thí nghiệm bón phân cho rừng Sở:

Kết quả kiểm tra tỷ lệ sống của Sở trồng trong các thí nghiệm bón phân cho thấy tỷ lệ sống của Sở trồng trong các công thức thí nghiệm bón phân tại Nghệ An sau 30 tháng trồng đạt được trung bình là 91,5%, trong khi đó tỷ lệ sống trung bình trong các công thức thí nghiệm bón phân tại Quảng Ninh sau 28 tháng trồng đạt 90,8% và ở Sơn La sau 28 tháng trồng tỷ lệ sống của Sở trong các thí nghiệm bón phân đạt được 85,4%.

Sau 28-30 tháng trồng sinh trưởng của Sở trong các CTTN bón phân ở cả 3 vùng là tương đối tốt. Trong từng vùng tăng trưởng hằng năm của Sở trong các CTTN là rất khác nhau. Tại Nghệ An tăng trưởng hằng năm về Do trong các CTTN bón phân đạt từ 0,3-0,7cm/năm, về Hvn đạt từ 11-54cm/năm và về Dt đạt từ 8-16cm/năm. Tăng trưởng hằng năm của Sở trong các CTTN bón phân tại Quảng Ninh đạt từ 0,2-0,5cm/năm về Do, từ 10-40cm/năm về Hvn và từ 7-17/cm/năm về Dt trong khi đó tăng trưởng hằng năm của Sở trong các CTTN bón phân tại Sơn La chỉ đạt từ 0,2-0,3cm/năm về Do, từ 9-29cm/năm về Hvn và từ 5-15/cm/năm về Dt.

Kết quả phân tích phương sai 1 nhân tố thông qua kiểm tra đa biến của các công thức thí nghiệm bón phân ở 3 vùng cho thấy sau 28 – 30 tháng trồng, với độ tin cậy là 95% thì sinh trưởng của Sở trồng ở 3 vùng đã có sự khác nhau giữa các công thức thí nghiệm bón phân. Tại Quảng Ninh và Nghệ An thì công thức bón 3kg phân chuồng hoai/cây cho sinh trưởng của Sở là tốt nhất, trong khi đó tại Sơn La thì công thức bón 1kg vi sinh/cây cho sinh trưởng về chiều cao vút ngọn của Sở là tốt nhất.

2.3.2. Kết quả thí nghiệm biện pháp kỹ thuật làm đất trồng Sở:

Kết quả kiểm tra về tỷ lệ sống của Sở trồng trong các công thức thí nghiệm làm đất và bón chất giữ ẩm cho thấy, nhìn chung tỷ lệ sống của Sở trong các công thức thí nghiệm về làm đất đều đạt được tương đối cao, từ 92,2 – 98,2%.

Kết quả kiểm tra ảnh hưởng của biện pháp làm đất đến sinh trưởng của Sở trồng tại Nghệ An và Sơn La bằng tiêu chuẩn U của Mann-Whitney cho thấy, với độ tin cây là 95% có thể kết luận rằng sinh trưởng của Sở trồng trong các CTTN làm đất ở Nghệ An và bón chất giữ ẩm ở Sơn La đều có sự khác nhau tương đối rõ rệt vì đều có xác suất kiểm tra của U nhỏ hơn 0,05 (Sig < 0,05). Như vậy, sau 28-30 tháng trồng sinh trưởng của Sở trong các thí nghiệm làm đất đã có sự khác nhau giữa các CTTN. Các biện pháp cày đất toàn diện và bón chất giữ ẩm cho đất đều cho sinh trưởng của Sở tốt hơn so với các công thức đối chứng.

2.3.3. Kết quả thí nghiệm trồng rừng Sở có cây kết hợp:

Kết quả điều tra về tỷ lệ sống của Sở trồng trong các công thức thí nghiệm trồng xen cho thấy, tỷ lệ sống trung bình của Sở sau 1 tháng trồng trong các thí nghiệm trồng xen ở 3 nơi đạt được từ 93,4 – 97,3% và sau 28-30 háng đạt được từ 86,2 – 92,9%. Trong các công thức thí nghiệm trồng xen thì công thức trồng xen Sở với Cốt khí ở cả 3 nơi đều cho cho tỷ lệ sống của Sở là cao nhất, sau đó là đến công thức trồng xen Sở với Sắn và tỷ lệ sống của Sở trong công thức không trồng xen (trồng Sở thuần loài) cho tỷ lệ sống thấp nhất.

Việc trồng Sắn xen với Sở sau 28-30 tháng đã có tác dụng hỗ trợ cho Sở sinh trưởng tốt hơn so với Cốt khí. Ngoài việc hỗ trợ che bóng cho cây Sở trong giai đoạn đầu thì hằng năm trong các đợt chăm sóc cho Sắn đã có tác dụng làm cho đất thêm tơi xốp hơn nữa Sở cũng được hưởng một phần phân bón từ việc chăm sóc cho Sắn. Do vậy việc trồng xen Sở với sắn đã có tác dụng hỗ trợ cho cây Sở sinh trưởng tốt hơn. Tuy nhiên để đạt được điều đó thì như phần trên đã đề cập đến, việc trồng xen Sắn phải đảm bảo được khoảng cách từ hàng Sắn đến hàng Sở từ khoảng 1,0-1,2m để có thể hỗ trợ cho Sở được tốt hơn. Vì nếu trồng Sắn quá gần với Sở thì Sở sẽ bị Sắn cạnh tranh về không gian dinh dưỡng, đặc biệt là bị cạnh tranh về ánh sáng, khi đó cây Sở sẽ không thể sinh trưởng tốt được.

2.3.4. Kết quả thí nghiệm bổ sung kỹ thuật phục hồi phục tráng rừng Sở:

a) Kết quả thí nghiệm ghép đổi tán:

Sau 2 tháng ghép tỷ lệ sống trung bình của 2 lần ghép đạt được là 62,8% và sau 4 năm ghép thì tỷ lệ sống của các chồi ghép còn lại là 54,2%.

Sau khi ghép 1,5-2 tháng các chồi ghép liền vết sẹo, đâm chồi và bắt đầu sinh trưởng phát triển. Tuy nhiên phải sau 9-10 tháng thì các chồi ghép mới bắt đầu sinh trưởng, phát triển mạnh. Nhìn chung sinh trưởng của các chồi ghép đều tương đối tốt  trong 4 năm đầu kể từ sau khi ghép. Các chỉ tiêu về đường kính cành, chiều cao và đường kính tán của chồi ghép đều tăng mạnh trong giai đoạn từ tháng thứ 30 trở đi.

Quá trình theo dõi cho thấy sau 3 năm ghép, các cành ghép đã bắt đầu ra nụ và đến tháng 12 năm 2009 nụ của các chồi ghép đã nở hoa. Kết quả điều tra đến cuổi tuổi 3 cho thấy có tới 91,7% số cành ghép đã có nụ và hoa, trong đó có 86,0% số cành ghép đã đậu quả. Như vậy có thể thấy rằng tỷ lệ đậu quả của các cành ghép trong năm đầu ra bói là tương đối cao.

Kết quả điều tra về năng suất quả của các cành ghép tại tuổi 4 cũng cho thấy, số quả hiện có trên các cành ghép biến động tương đối lớn, thấp nhất là có 2 quả/cành và cao nhất đạt tới 94 quả/cành, hệ số biến động về số quả trên cành là 101,3%. Trung bình đạt 25 quả/cành.

3. Kết luận và kiến nghị

3.1. Kết luận

– Đến cuối năm 2006 diện tích rừng Sở còn lại ở các tỉnh phía Bắc đến Bắc Trung Bộ là 6262,3ha, trong đó phần lớn là rừng Sở trồng thuần loài. Việc gây trồng và phát triển cây Sở chủ yếu theo kinh nghiệm nhân dân, nguồn giống chưa được chọn lọc và chưa có hệ thống các biện pháp kỹ thuật thâm canh.

– Đề tài đã chọn được 12 cây trội ở 3 vùng, trong đó ở Nghệ An có 5 cây là NA1, NA6, NA8, NA13 và NA15, ở Phú Thọ có 4 cây trội là PT3, PT4, PT8 và PT18, ở Quảng Ninh có 3 cây là QN2, QN6 và QN14. Đây là các cây trội có năng suất hạt cao hơn từ 20,4-256,6% và sản lượng dầu cao hơn từ 15,45-325% so với trung bình quần thể.

– Biện pháp kỹ thuật giâm hom và ghép cây mầm Sở đều rất có triển vọng. Trong các loại hormon được sử dụng thì hormon NAA với nồng độ 0,1% cho tỷ lệ hom Sở ra rễ cao nhất (72,3%) và chất lượng hom tốt nhất. Giâm hom Sở vào tháng 8 cho tỷ lệ hom ra rễ cao nhất, đạt 83,4%.

– Tỷ lệ sống của các mô hình thí nghiệm trồng rừng Sở thâm canh ở Nghệ An, Quảng Ninh và Sơn La sau 28-30 tháng hầu hết đều đạt trên 90%. Sinh trưởng của Sở trong các thí nghiệm thâm canh ở cả 3 vùng đã có sự khác nhau giữa các CTTN. Các công thức thí nghiệm bón lót 3kg phân chuống hoai/cây, cày đất toàn diện, trồng xen Sở với Sắn đều cho sinh trưởng của Sở là tốt nhất.

– Tỷ lệ sống của các chồi ghép trong mô hình phục tráng rừng Sở già cỗi ở Nghệ An sau 4 năm đạt được là 54,2%. Các chồi ghép đều đang sinh trưởng phát triển tốt. Sau 4 năm ghép đã có 86% số cành ghép đậu quả. Số quả trung bình trên mỗi cành là 25 quả.

– Đề tài đã xây dựng được bản dự thảo quy trình kỹ thuật trồng rừng Sở thâm canh cho 3 vùng nghiên cứu là Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.

3.2. Kiến nghị:

– Kính đề nghị Bộ NN&PTNT cho quản lý, bảo vệ 12 cây trội đã được chọn lọc ở 3 vùng, đồng thời tiếp tục cho theo dõi các thí nghiệm về trồng rừng thâm canh và khảo nghiệm giống Sở ở cả 3 vùng để có kết luận chính xác về các kết quả của thí nghiệm.

– Song song với việc theo dõi tiếp các thí nghiệm của đề tài, cần có nghiên cứu để phân loại và giám định cho các giống Sở hiện có ở các địa phương. Làm cơ sở cho việc cung cấp giống sau này.

– Trên cơ sở bản dự thảo quy trình kỹ thuật trồng rừng Sở thâm canh cho 3 vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc trung bộ mà đề tài đã thực hiện, kính đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tiếp tục cho nghiên cứu, hoàn thiện để xây dựng thành quy trình kỹ thật trồng rừng Sở thâm canh cho 3 vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc trung bộ.

– Kính đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho làm thủ tục công nhận giống tạm thời cho 12 cây trội đã được chọn lọc ở 3 vùng.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Đặng Thái Dương (2002): Tổng quan về tình hình nghiên cứu và gây trồng cây Sở ở Việt Nam. Báo cáo chuyên đề nghiên cứu sinh, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 2002.
  2. Vũ Thị Đào, Đào Thị Nguyên, Lương Cẩm Thạch (1997): Một số kết quả nghiên cứu công nghệ chế biến hạt Sở. Báo cáo chuyên đề hội thảo khoa học tại Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam -12/1997.
  3. Nguyễn Tiến Hải, 1997: “Dẫn giống Sở cành mềm Trung Quốc và những thử nghiệm bước đầu ở Việt Nam“. Báo cáo chuyên đề hội thảo khoa học tại Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam tháng 12/1997.
  4. Nguyễn Quang Khải, Cao Quang Nghĩa, Bùi Thanh Hằng, Lương Thế Dũng, Đặng Thịnh Triều (2004): Nghiên cứu bổ sung một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh chủ yếu rạo rừng Sở để cung cấp nguyên liệu cho sản xuất dầu thực phẩm và kết hợp phòng hộ. Báo cáo tổng kết đề tài, Viện Khoa học Lâm ngiệp Việt Nam 2004.
  5. Mã Cẩm Lâm, Trần Vĩnh Trung (2005): Khái quát về nghiên cứu và phát triển cây Sở tại Trung Quốc. Hội thảo phát triển cây Sở, Hà Nội 2005.
  6. Nguyễn Hoàng Nghĩa, Đoàn Thị Bích (1990): Tuyển chọn giống Sở có năng suất cao cho vùng Lạng Sơn. Báo cáo tổng kết đề tài khoa học 02C-05.01, 1990.
  7. Nguyễn Hoàng Nghĩa (1997): Nghiên cứu giống và phát triển cây Sở  Việt Nam, Viện KHLNVN.
  8. Gia Thụy (1967): Trồng rừng Sở dầu bằng các phương pháp làm đất khác nhau. Trần Liễu Hoa dịch từ tạp chí Lâm nghiệp Trung Quốc, số 22, Tr 8 -9, năm 1966). Thông tin khoa học và kỹ thuật Lâm nghiệp, Uỷ ban KH & KT nhà nước, (5), 1967, tr. 1-2.
  9. Edward F. Gilmam and Dennis G. Watson (1993): Camellia oleifera-Tea-Oil Camellia, Institute of Foot and Agricultural Sciences, University of Florida.

10. Goi-M (1982): Studies on the flower formation and forcing of some ornamental trees and shrubs native to East Asia. Memoirs of the Faculty of Agriculture, No. 38, pp 120, 136 ref. Kagawa University, Miki-tyo, Kagawa-Ken, 761-07 Japan.

11. Fang, J. (1994): Advances in science and technology on tea oil tree and tung oil tree in China (in Chinese), Forest science, No. 7, pp 30-38.

12. Hakoda, N. (1987): Studies on the interrelationships between cultivas of Camellia sansaqua Thunb. and species of the genus Camellia Linn., based on peroxidase isozymes, Journal of The japanese Society For Horticutural Science, 56 (3) pp 339-343.

13. Hakoda, N. and T. Akihama (1988): Morphological classification of cultivars in Camellia sasanqua Thunb: Using principal component analysis and cluster analysis, Journal of The Japanese Society For Horticultural Science, 57 (2) pp 233-242.

14. Samartin, A. (1992): “Potential for large scale in vitro propagation of Camellia sansaqua Thunb., Journal of Horticural Science, 67 (2) pp 211-217.

Tin mới nhất

Các tin khác

[logo-slider]