Ký hiệu kho | VI24_488 |
Chuyên ngành | Gỗ rừng trồng |
Địa phương | Toàn Quốc |
Lĩnh vực | Chế biến lâm sản |
Đề tài nghiên cứu khoa học | Nghiên cứu xác định tuổi thành thục công nghệ và thành thục kinh tế của các mô hình rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng trên một số vùng sinh thái trọng điểm (Đông Bắc Bộ, Trung Bộ và Đông Nam Bộ) |
Cấp | Cấp Bộ |
Mục tiêu | + Xác định tuổi thành thục công nghệ và thành thục kinh tế các mô hình rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng. + Xác định và so sánh giá trị gia tăng các mô hình rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng. |
Ngày bắt đầu | 2016 |
Ngày kết thúc | 2018 |
Chi tiết | + Nghiên cứu xác định tuổi thành thục về số lượng của các mô hình rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng ở Đông Bắc Bộ, Trung Bộ và Đông Nam Bộ + Nghiên cứu xác định tuổi thành thục công nghệ theo sản phẩm của các mô hình rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng ở Đông Bắc Bộ, Trung Bộ và Đông Nam Bộ + Nghiên cứu xác định tuổi thành thục kinh tế, đánh giá hiệu quả kinh tế và giá trị gia tăng theo sản phẩm của mô hình rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng ở Đông Bắc Bộ, Trung Bộ và Đông Nam Bộ + Đề xuất và khuyến nghị các giải pháp về chính sách phát triển rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng ở Đông Bắc Bộ, Trung Bộ và Đông Nam Bộ |
Phương pháp | |
Chủ nhiệm đề tài | TS. Đỗ Văn Bản |
Đơn vị | |
Kết quả | 1. Tuổi thành thục về số lượng của các mô hình Tại Đông Bắc Bộ, đối với Keo lai, rừng trồng chuyển hóa (cấp đất I) có tuổi thành thục số lượng là 11 tuổi. Rừng trồng gỗ nhỏ, gỗ lớn, tuổi thành thục tăng dần theo độ xấu của điều kiện lập địa. Tại cấp đất tốt nhất, tuổi thành thục là 12 năm, cấp đất II và III là 13, 14 năm và cấp đất IV 16 năm. Đối với Keo tai tượng, rừng trồng chuyển hóa, cấp đất I là 11 năm, cấp đất II) là 13 năm. Rừng trồng gỗ nhỏ, gỗ lớn, tại cấp đất I là 12 năm, tăng lên 13 năm đối với cấp đất II, 15 năm với cấp đất III và 16 năm với cấp đất xấu nhất. Tại Trung Bộ, đối với Keo lai, rừng trồng chuyển hóa tại cấp đất I có tuổi thành thục số lượng là 12 năm, cấp đất II là 13 năm. Rừng trồng gỗ lớn, gỗ nhỏ, cấp đất II và III là 14 năm, cấp đất IV là16 năm. Đối với Keo tai tượng, rừng trồng chuyển hóa, cấp đất I là 12 năm, cấp đất II là 13 năm. Rừng trồng gỗ nhỏ, gỗ lớn, tại cấp đất I là 13 năm, 14 năm đối với cấp đất II, cấp đất III và 16 năm với cấp đất xấu nhất. Tại Đông Nam Bộ, đối với Keo lai, rừng trồng chuyển hóa tại cấp đất I có tuổi thành thục số lượng là 11 năm, cấp đất II là 12 năm. Rừng trồng gỗ lớn, gỗ nhỏ, tại cấp đất tốt nhất là 12 năm, cấp đất II và III là 13 tuổi. 2. Tuổi thành thục về công nghệ theo sản phẩm Sản phẩm rừng trồng là gỗ tròn nguyên liệu được phân theo kích cỡ, chủ yếu theo đường kính đầu nhỏ không kể vỏ. Tuổi thành thục công nghệ theo sản phẩm được xác định theo loài, mô hình, cấp đất và theo vùng sinh thái, được tổng hợp trong Bảng tra. Nhìn chung, tuổi thành thục công nghệ của gỗ làm đồ mộc thấp nhất 12 và cao nhất 15; gỗ để ghép thanh và bóc thấp nhất 5 và cao nhất là 13; gỗ để băm dăm thấp nhất là 4 và cao nhất là 7. Lưu ý một điều rằng, cần xem xét đến tuổi thành thục theo đặc tính. Gỗ đạt ổn định về một số đặc tính được nghiên cứu xác định ở tuổi 6 – 7 năm. 3. Tuổi thành thục kinh tế, đánh giá hiệu quả kinh tế và giá trị gia tăng theo sản phẩm Nếu để sản xuất gỗ đồ mộc, tuổi thành thục về kinh tế và công nghệ tương tự nhau (khoảng 12 - 13 năm đối với cả hai loài cây), tuổi thành thục về số lượng có thể hơn hoặc kém 1, 2 năm. Như vậy, tuổi thành thục về công nghệ và kinh tế đối với sản phẩm gỗ đồ mộc vào khoảng 13 năm. Đối với sản phẩm gỗ để bóc, ghép thanh, tuổi thành thục về công nghệ là 8 - 12 tuổi (loài Keo lai) và 7 - 13 tuổi (Keo tai tượng). Trong khi đó, tuổi thành thục kinh tế đối với sản phẩm này từ 10 - 12 (Keo lai) và 10 - 13 tuổi (Keo tai tượng). Đối với sản phẩm gỗ băm dăm, tuổi thành thục về công nghệ là 4 - 6 tuổi (loài Keo lai) và 4 - 7 tuổi (Keo tai tượng). Trong khi đó, tuổi thành thục kinh tế đối với sản phẩm này là 6 tuổi (Keo lai) và 6 - 7 tuổi (Keo tai tượng). Nếu xét về chỉ tiêu lượng khai thác đạt tối đa (bao gồm nhiều loại sản phẩm khác nhau) thì tuổi thành thục đạt từ 11 - 16 đối với cả hai loài Keo. 4. Đề xuất và khuyến nghị các giải pháp Sử dụng các giống đã được cải thiện chất lượng, giống tiến bộ kỹ thuật; Điều chỉnh mật độ ban đầu phù hợp với từng mô hình; chú trọng tỉa thưa, tỉa cành ; Định hướng phát triển vùng sản xuất gỗ lớn với chu kỳ 10 đến13 năm ở những địa điểm có điều kiện lập địa phù hợp, hiệu quả kinh tế cao; Không xáo trộn những quy hoạch vùng nguyên liệu đã thực hiện của các doanh nghiệp chế biến gỗ ; Kiện toàn, đổi mới tổ chức sản xuất tại các công ty Lâm nghiệp; Xây dựng, nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác lâm nghiệp; thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi về thể chế để thúc đẩy trồng rừng gỗ lớn và thực hiện chuyển hóa rừng trồng. Tiếp tục thực hiện chủ trương giao, cho thuê đất rừng. Khuyến khích tích tụ đất đai để tạo ra các vùng trồng nguyên liệu tập trung tập trung, liền vùng, liền khoảnh; Miễn hoặc giảm tiền thuê đất và thuế sử dụng đất đối những diện tích trồng rừng, chuyển hóa kinh doanh gỗ lớn. Có chính sách khuyến khích phát triển chế biến gỗ và thị trường. V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ - Tuổi thành thục về số lượng của Keo tai tượng hầu như cao hơn Keo lai. Đối với Keo lai với mô hình chuyển hóa, tại cấp đất I và II là từ 10 - 11 năm, mô hình gỗ nhỏ, gỗ lớn cho 4 cấp đất từ 11 - 14 năm tuổi. Đối với Keo tai tượng, mô hình chuyển hóa cấp đất I và II từ 11 - 12 năm , mô hình gỗ nhỏ, gỗ lớn tại 4 cấp đất từ 12 - 15 năm. - Tùy thuộc theo loài, theo mô hình, theo cấp đất và theo vùng sinh thái mà tuổi thành thục công nghệ khác nhau. Nhìn chung gỗ làm đồ mộc thấp nhất 12 và cao nhất 15 năm; gỗ để ghép thanh và bóc thấp nhất 5 và cao nhất là 13 năm; gỗ để băm dăm thấp nhất là 4 và cao nhất là 7 năm. - Cả hai loài Keo để sản xuất gỗ làm đồ mộc, tuổi thành thục kinh tế 13 năm. Đối với Keo lai, sản xuất gỗ để bóc, làm ván ghép thanh, ở mô hình gỗ lớn, gỗ nhỏ khoảng 12 năm, ở mô hình chuyển hóa là khoảng 10 năm; sản xuất gỗ để băm dăm ở mô hình gỗ nhỏ và gỗ lớn nên 6 năm, ở mô hình chuyển hóa là 7 năm. Đối với Keo tai tượng ở mô hình gỗ lớn, gỗ nhỏ khoảng 13 năm, mô hình chuyển hóa là 12 tuổi. Sản xuất gỗ để băm dăm, ở mô hình gỗ nhỏ và gỗ lớn là 7 tuổi, rừng trồng chuyển hóa là 6 năm. Nếu rừng đa mục đích, Keo lai ở mô hình gỗ nhỏ và gỗ lớn là 12 năm, mô hình chuyển hóa 11 năm; Keo tai tượng lần lượt là 13 năm và 12 năm. Tuổi thành thục kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào lãi suất. Khi lãi suất tăng lên thì tuổi thành thục kinh tế thường có xu hướng giảm đi. Hiệu quả kinh tế ở mô hình gỗ nhỏ thường thấp, cần kéo dài chu kỳ kinh doanh; ở rừng gỗ lớn (9-15 năm), cao hơn và tuổi có giá trị gia tăng cao nhất khoảng 12-13 năm và ở rừng chuyển hóa cao hơn so với rừng gỗ nhỏ, nhưng tuổi mang lại giá trị gia tăng cao nhất từ 10 đến11 năm. - Cần nghiên cứu thêm: • Những ảnh hưởng của các biện pháp lâm sinh đến tuổi thành thục công nghệ và kinh tế. • Xác định về tỷ lệ lợi dụng theo sản phẩm. • Những yếu tố rủi ro khi trồng rừng gỗ lớn (sâu bệnh, đổ gãy, gió bão, trượt giá...) cần được nghiên cứu./. |
Tiến bộ được công nhận | |
Phạm vi |
Nghiên cứu xác định tuổi thành thục công nghệ và thành thục kinh tế của các mô hình rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng trên một số vùng sinh thái trọng điểm (Đông Bắc Bộ, Trung Bộ và Đông Nam Bộ)
03/04/2020 by