Tên gốc | Afforestation of mined areas, Rai,S,N. |
Tên tạm dịch | Trồng rừng trên đất mỏ |
Người nhập liệu | |
Tác giả | Rai S.N. |
Địa chỉ liên hệ | |
Các tác giả | |
Địa chỉ xuất bản | 0 |
Ngày xuất bản | 1992 |
Người biên tập | |
Tập | |
Số lượng | 18-20 |
Phụ trú | |
Từ khóa chính | Sinh khối; Sinh trưởng; Kinh tế xã hội; Cây gỗ; Cây bụi |
Từ khóa phụ | |
Biên tập viên | |
Ký hiệu kho | |
Kho lưu trữ | VKHLN, PĐ |
Tóm tắt | Nói chung đất vùng mỏ không còn tốt cho sinh trưởng của cây. Đất mỏ sau khai thác 8-9 năm mớicó thể phục hồi về sinh thái. Kỹ thuật cơ bản là: Chọn & trồng các loài cỏ cùng cây bụi thích hợp với chân đất trong vòng 1-2 năm. Trồng các loài cây gỗ & cây bụi có giá trị về kinh tế xã hội với dân dịa phương, trong vòng 3-4 năm. Trên đất mỏ than trồng các loài bạch đàn Camal, Ehybris xen keo là thích hợp nhất. Bạch đàn hybris cho một tổng lượng sinh khối là 20 T/ha/năm. Các loài có mức sinh trưởng lớn nhất là: Bạch đàn, keo, Grevillea pteridifolia, pongamia pinnata, dalbergia sisoo & Albizia mellifera. Bổ xung thêm 75-100 kg axid/ha là có khả năng cải thiện đất |
Afforestation of mined areas, Rai,S,N.
24/08/2013 by